Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Bài tự bào chữa của Ts Cù Huy Hà Vũ tại phiên tòa phúc thẩm ngày 2/8/2011

VRNs (05.08.2011) – Kính mời quý độc giả xem bài tự bào chữa tại phiên tòa 02/8/2011 của TS Cù Huy Hà Vũ. Bài tự bào chữa gồm 10 điểm được TS Cù Huy Hà Vũ làm trong trại tạm giam số 1, công an TP. Hà Nội.



Căn cứ điểm e khoản 2 điều 50 Bộ luật TTHS Tôi là Cù Huy Hà Vũ yêu cầu như sau:
Tôi yêu cầu Luật Sư Vương Thị Thanh đánh máy lại quan điểm của tôi về vụ án đã được các luật sư ghi lại thành biên bản và chuyển thành bản tự bào chữa của tôi.

BẢN TỰ BÀO CHỮA CỦA ÔNG CÙ HUY HÀ VŨ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO XÉT XỬ VỤ ÁN
“CÙ HUY HÀ VŨ TUYÊN TRUYỀN CHỐNG NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” NGÀY 02/8/2011


Thưa hội đồng xét xử,

Tôi Cù Huy Hà Vũ khẳng định, Tôi không phạm tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN như Cơ quan an ninh điều tra – Công an Thành phố Hà Nội, Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã qui kết cho tôi với chứng minh sau đây:

Tôi, Cù Huy Hà Vũ, trình bày mục 1 của bản tự bào chữa như sau:

1/ Vụ án “Cù Huy Hà Vũ tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là trái pháp luật vì được khởi tố dựa trên chứng cứ được thu thập trái pháp luật:

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội ghi: “Hồi 0 giờ 05 phút ngày 05 tháng 11 năm 2010 sau khi nhận được tin báo của quần chúng về việc có hoạt động mại dâm và sử dụng ma túy tại phòng 101 khách sạn Mạch Lâm tại số 28 đường số 10, phường 11, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, công an phường 11, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức kiểm tra hành chính phát hiện một đôi nam nữ ở trong phòng không có đăng ký kết hôn. Kiểm tra giấy tờ tùy thân xác định hai người có tên là Cù Huy Hà Vũ và Hồ Lê Như Quỳnh. Kiểm tra đồ vật của Cù Huy Hà Vũ có 212.231.000 đồng; 1 máy tính xách tay và 2 USB. Công an phường đã đưa cả hai đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Tại Công an phường, kiểm tra máy tính xách tay và 2 USB của Cù Huy Hà Vũ thấy có chứa 40 đầu tài liệu, trong đó có một số bài do Vũ viết, trả lời phỏng vấn có nội dung đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Công an phường 11 đã báo cáo và chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an để xử lý.

Căn cứ các tài liệu ban đầu nêu trên, ngày 05 tháng 11 năm 2011 Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an đã tổ chức khám xét chỗ ở của Cù Huy Hà Vũ tại 24 đường Điện Biên Phủ, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, thu giữ nhiều tài liệu trong đó có tài liệu có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên ngày 05 tháng 11 năm 2010 Cơ quan An ninh điều tra Bộ công an đã ra lệnh tạm giữ; ngày 09 tháng 11 năm 2010 đã ra quyết định khởi tố vụ án; ngày 11 tháng 11 năm 2010 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ra quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan an ninh điều tra công an thành phố Hà Nội để điều tra công an thành phố Hà Nội ra quyết định khởi tố bị can đối với Cù Huy Hà Vũ về tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để điều tra làm rõ.”

Trên thực tế, Công an đã lén bỏ 02 (hai) bao cao su giao hợp đã sử dụng vào phòng khách sạn tôi thuê trong lúc tôi đi vắng để làm cho mọi người hiểu rằng việc Công an nửa đêm phá cửa xông vào phòng tôi để bắt mại dâm theo “tin báo của quần chúng” là có cơ sở (Biên bản kiểm tra phòng Khách sạn nơi tôi ở do công an lập ghi rõ đã thu được 02 (hai) bao cao su giao hợp đã sử dụng). Lẽ dĩ nhiên là không có bất kỳ hoạt động mại dâm nào cũng như không có bất kỳ hoạt động sử dụng ma túy nào trong phòng khách sạn nơi tôi ở. Điều này chứng tỏ mục đích thực sự của việc công an bằng bạo lực đột nhập vào phòng tôi ở là để có cớ đưa tôi về trụ sở Công an để cưỡng đoạt máy tính xách tay của tôi để tiếp đó in tài liệu lưu trữ trong máy ra. Mục đích bất minh này của Công an đã được thể hiện rõ qua việc Cáo trạng không hề đả động đến việc xác minh “tin báo của quần chúng có hoạt động mãi dâm và sử dụng ma túy” trong phòng tôi ở là đúng hay sai sự thật mà lại đề cập ngay đến việc Công an “kiểm tra máy tính xách tay và 2 (hai) USB của Cù Huy Hà Vũ”. Trên thực tế, bất chấp sự phản đối quyết liệt của tôi, Công an đã đưa chuyên gia tin học đến phá mã khóa máy tính xách tay của tôi và tiếp đó in các tài liệu lưu trữ trong đó ra. Biên bản do Công an lập về việc in các tài liệu từ máy tính xách tay của tôi không có chữ ký của tôi cho thấy rõ việc in tài liệu này là hành vi cưỡng đoạt tài liệu của tôi.

Bởi căn cứ những tài liệu bị Công an cưỡng đoạt này, hay nói cách khác, dựa trên chứng cứ được thu thập một cách bất hợp pháp nên việc Công an bắt giữ tôi, khám xét nhà tôi và thu giữ tài liệu tại nhà tôi là trái pháp luật. Cũng như vậy, việc công an khởi tố vụ án “Cù Huy Hà Vũ tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và khởi tố bị can đối với tôi dựa trên những tài liệu bị công an thu giữ trái pháp luật tại nhà tôi dĩ nhiên là trái pháp luật. Bởi lẽ vụ án này được khởi tố trái pháp luật như vậy nên vụ án dứt khoát phải bị hủy bỏ và tôi phải được trả tự do ngay lập tức!.

Bên cạnh đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải khởi tố những công an liên quan đến việc lén bỏ 02 (hai) bao cao su giao hợp đã sử dụng vào phòng khách sạn tôi thuê để vu khống tôi có liên quan đến hoạt động mại dâm về “tội vu khống” quy định tại Điều 122 Bộ luật Hình sự và những công an liên quan đến việc cưỡng đoạt tài liệu lưu trữ trong máy tính xách tay của tôi và tại nhà tôi về “tội cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự. Nếu hai vụ án này không được khởi tố thì điều này có nghĩa nơi ở của bất kỳ công dân Việt Nam nào cũng sẽ là điểm đến tiềm tàng của những bao cao su giao hợp đã sử dụng và đi kèm là cáo buộc có hoạt động mại dâm cũng như tài sản của bất kỳ công dân Việt Nam nào cũng sẽ là đối tượng tiềm tàng của hành vi cưỡng đoạt từ phía cơ quan được mệnh danh “Bảo vệ pháp luật”!

2/ Tôi không gây thiệt hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Khoản 1, Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

“Nguyên đơn dân sự là các cá nhân, Cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Khoản 4, Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

“Khi điều tra truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”. Như vậy, đối với hành vi đã hoàn thành, mà ở đây là các bài viết, trả lời phỏng vấn của tôi đã được công bố, “gây thiệt hại” là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm. Nói cách khác, không có thiệt hại xảy ra thì không có tội phạm điều này có nghĩa chỉ khi nào Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại để được tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng mới có căn cứ để xác định có hay không có tội phạm. Do đó, tôi cũng đã có văn bản đề nghị Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết tham gia tố tụng với tư cách đại diện cho Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 101 Hiến pháp 1992. Nếu cho rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bị các bài viết, trả lời phỏng vấn của tôi gây thiệt hại (Văn bản do luật sư Nguyễn Thị Dương Hà chuyển). Tuy nhiên cho đến nay Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã không hề hồi âm về đề nghị trên của tôi và điều này, càng chứng tỏ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không bị thiệt hại do đó, việc các cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tôi là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật.

3/ Tôi không có hành vi “ Tuyên truyền”

Thực vậy, một trong hai yếu tố cấu thành “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là “hành vi tuyên truyền”. Đại từ điển tiếng Việt – NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2007 định nghĩa: “Tuyên truyền” là “vận động mọi người làm theo”. Thế nhưng trong các bài viết, trả lời phỏng vấn của tôi không hề có nội dung “vận động mọi người làm theo” các quan điểm của cá nhân tôi về những vấn đề mà cá nhân tôi quan tâm nên không thể là hành vi “tuyên truyền”.

4/ Các bài viết, trả lời phỏng vấn của tôi không có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) ghi: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất (vì chỉ có một chủ là nhân dân), có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) thì Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định bởi các nội dung:

- Pháp quyền;
- Của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
- Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân;
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất (vì chỉ có một chủ là nhân dân);
- Thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.

Tất cả các bài trả lời phỏng vấn, bài viết của tôi không hề có nội dung chống lại bất kỳ nội dung nào của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp định nghĩa như trên đã nêu. Do đó, việc các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tôi là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật.

Không những thế, trong tất cả các bài viết, trả lời phỏng vấn của tôi, tôi quyết liệt bảo vệ Nhà nước Việt Nam có các nội dung đã được Hiến pháp xác định bằng cách chống lại các hành vi xâm hại Nhà nước và công dân từ phía nhà cầm quyền:

Trong bài “Đa đảng mới chống được lạm quyền, câu “Hiện nay ở Việt Nam người ta sử dụng ngân sách vô tội vạ và rất nhiều tiền từ ngân sách Nhà nước cho những việc thậm chí là Maphia…để có được chế tài đối với những kẻ cướp ngày… thì tôi, Cù Huy Hà Vũ, khẳng định: Cách duy nhất là phải có chế độ “Đa đảng” tại Việt Nam là để nói tới tình trạng rất phổ biến hiện nay là chính quyền địa phương ở hầu hết các tỉnh dùng ngân sách Nhà nước để huy động Công an và các lực lượng khác cưỡng chế lấy đất của dân một cách trái pháp luật (Ví dụ: vụ Phú La – Hà Đông, vụ Nhà ga T2 – cảng Hàng không – Nội Bài, Dự án đường 2,5 quận Hoàng Mai, Hà Nội. Vụ bà Dương Thị Kính ở 255/6/27 Ngô Tất Tố – quận Bình Thạnh – thành phố Hồ Chí Minh, vụ Cồn Dầu ở Đà Nẵng…)

Trong bài “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ từ khởi kiện Thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp” của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) phỏng vấn tôi, tôi lên án hành vi phi pháp quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc ra quyết định cho khai thác Bauxite tại Tây Nguyên, bất chấp Luật Bảo vệ môi trường, Luật Di sản văn hóa, Luật Quốc phòng, dẫn đến môi trường bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên và quốc phòng an ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng.

Cũng trong bài này tôi phê phán hành vi phi pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam khi Đảng tự cho mình quyền lãnh đạo Nhà nước trong đó có Quốc hội, tức Đảng tự đặt mình lên trên cả Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp;

Trong bài “Tam quyền nhất lập đồng lòng hại dân” do tôi viết, tôi lên án việc Văn phòng Chính phủ (Cơ quan hành pháp, giúp việc cho Chính phủ và Thủ tướng), Tòa án nhân dân Tối cao (Cơ quan tư pháp), Ủy ban tư pháp Quốc hội (Cơ quan lập pháp có trách nhiệm giám sát thi hành luật pháp và tư pháp) đã từ bỏ chức năng, quyền hạn của mình dẫn đến quyền lợi hợp pháp của một số công dân trú tại khu tập thể Văn phòng Chính phủ số 02 Thụy Khuê, Hà Nội bị triệt tiêu. Cụ thể là Văn phòng Chính phủ đã lờ đi, không giải quyết đơn khiếu nại của các công dân nói trên về việc họ không được Văn phòng Chính phủ tái định cư theo luật định sau khi giải tỏa nơi ở của họ. Tiếp đó đơn khiếu kiện hành chính của các công dân này bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân Tối cao lờ nốt, không thụ lý. Cực chẳng đã các công dân nói trên thông qua Luật sư gửi Ủy ban Tư pháp Quốc hội đề nghị xác định cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Thế nhưng, đề nghị chính đáng này của họ cũng lại bị Ủy ban Tư pháp Quốc hội cho rơi bào “sự im lặng đáng sợ”. Tóm lại, những công dân ở khu tập thể Văn phòng Chính phủ số 2 Thụy Khuê, Hà Nội đã trở thành nạn nhân của tình trạng không thực hiện chức năng, quyền hạn của cả ba cơ quan: Hành pháp, Tư pháp và Lập pháp nói trên.

5) Bày tỏ quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa xã hội gắn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đa đảng, chiến tranh Việt Nam không phải là tội phạm.

Thực vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội đã dẫn ra các bài:

- Bài “Phải Đa đảng mới chống được lạm quyền” tôi trả lời phỏng vấn đài Á châu

Tự do (RFA);

- Bài “Chiến tranh Việt Nam và ngày 30/4 dưới mắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ” tôi trả

lời phỏng vấn Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA);

- “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ từ khởi kiện Thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp” tôi trả lời phỏng vấn Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA);

- Phóng viên Trâm Oanh “Tổ chức không biên giới” Cộng hòa Liên bang Đức phỏng vấn Cù Huy Hà Vũ;

để làm chứng cứ buộc tội tôi. Tuy nhiên, những quan điểm của tôi về Đảng cộng sản Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội gắn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, về Đa đảng, về chiến tranh Việt Nam không phải là hành vi chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những căn cứ sau:

Một là, cũng như bất cứ đảng phái nào khác, Đảng cộng sản Việt Nam không phải là Nhà nước;

Hai là, chủ nghĩa xã hội gắn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin không phải là Nhà nước. Đó là chưa nói đến chủ nghĩa xã hội là sai lầm. Thực vậy chủ nghĩa xã hội là phản xã hội (qui luật xã hội là có phương thức sản xuất mới thì mới dẫn đến chế độ xã hội mới, đằng này chủ nghĩa xã hội chủ trương thay đổi chế độ trước rồi mới thiết lập phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa sau), phản dân chủ (chuyên chính vô sản là đối lập với dân chủ), phản quốc gia – Dân tộc (chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn cao của chủ nghĩa xã hội chủ trương không có nhà nước và vì vậy đặt Quốc gia Dân tộc trước nguy cơ bị diệt vong khi nước ngoài xâm lược). Sự sụp đổ của Liên xô – cái nôi của chủ nghĩa xã hội thế giới – cách đây đúng 20 năm vào tháng 8/1991, là sự phá sản không thể chối cãi của chủ nghĩa xã hội gắn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin.

Ba là, Đa đảng không phải là nhà nước. Cũng cần khẳng định rằng Đa đảng là hoàn toàn hợp pháp ở Việt Nam. Thực vậy, ngay chính Đảng cộng sản Việt Nam cũng sinh ra từ Đa đảng, cụ thể là được thành lập trên cơ sở hợp nhất của An nam cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản đảng theo đề xướng của Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh). Trên thực tế khi chủ tịch Hồ Chí Minh còn sống, song song tồn tại với Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Thực tế này cũng được Hiến pháp 1980 khẳng định khi ghi “Các chính đảng” tại Điều 9 quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ điển bách khoa Việt Nam – do Chính phủ Việt Nam tổ chức biên soạn ở mục từ “Đa đảng”; “Đảng Dân chủ Việt Nam (thành lập 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (thành lập 1947) đều do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập”.

Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiểu biểu về Đa đảng. Chủ tịch Quốc hội, tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong trả lời phỏng vấn báo chí Ấn Độ vào năm ngoái (2010) đã khẳng định: “tôi không phản đối Đa đảng”. Quan điểm này của người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam không những hoàn toàn phù hợp với thực tế Đa đảng ở Việt Nam như trên đã nói mà còn hoàn toàn phù hợp với thực tế quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước trên thế giới. Thực vậy, tuyệt đại đa số (98%) các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam thực hiện chế độ Đa đảng. Để nói, nếu Việt Nam phản đối Đa đảng thì sẽ bị rơi vào cô lập tuyệt đối trong sinh hoạt quốc tế. Tóm lại, phản đối Đa đảng hay coi yêu cầu Đa đảng là tội phạm dứt khoát là hành vi chống lại Hiến pháp Việt Nam, chống lại chính Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam.

Như vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội, đã dẫn ra những quan điểm của tôi về Đảng cộng sản Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội gắn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, về Đa đảng, về chiến tranh Việt Nam để làm chứng cứ buộc tôi vào “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là hoàn toàn phi lý, chẳng khác nào “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” như cách nói của dân gian.

6) Thực hiện quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được Hiến pháp bảo hộ không phải là tội phạm.

Thực vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội nói trên đã dẫn văn bản “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân, cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc” mà tôi đã gửi Quốc hội vào 8/2010 để làm chứng cứ buộc tội tôi. Tuy nhiên, việc làm này của các cơ quan tiến hành tố tụng là hoàn toàn phi pháp vì không ai có quyền lấy kiến nghị của công dân gửi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm chứng cứ chống lại công dân bởi kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là quyền của công dân được Hiến pháp bảo hộ tại Điều 53. Điều nghiêm trọng là Giám đốc Công an thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội Đặng Văn Khanh, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Sơn đều là đại biểu Quốc hội mà lại chỉ đạo thực hiện hành vi phi pháp này, bởi điều này cho thấy các đại biểu Quốc hội không thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công dân chừng nào họ đồng thời là người của cơ quan hành pháp hoặc của cơ quan tư pháp.

Do đó cách duy nhất để quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ là phải chấm dứt tình trạng “ba trong một”, tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” hay phải thực hiện “tam quyền phân lập” là nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Nói cách khác phải chấm dứt chế độ đại biểu quốc hội kiêm nhiệm để chỉ thực hiện chế độ đại biểu quốc hội chuyên trách ngay từ Quốc hội khóa khóa 13. Cụ thể là, người của cơ quan hành pháp hay tư pháp trúng cử Đại biểu quốc hội thì chức năng hành pháp hay tư pháp của họ phải bị đình chỉ cho đến khi nào họ không còn thực hiện chức năng đại biểu quốc hội nữa và ngược lại, đại biểu quốc hội nào được bầu hoặc được bổ nhiệm vào các cương vị hành pháp hay tư pháp thì chức năng lập pháp của họ phải bị đình chỉ cho đến khi nào họ không còn đảm nhiệm cương vị hành pháp hay tư pháp nữa, tất nhiên là trong khuôn khổ nhiệm kỳ quốc hội.

7) Tố giác tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng không phải là tội phạm.

Thực vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng trên thành phố Hà Nội đã dẫn bài “Bà Trần Khải Thanh Thủy cố ý gây thương tích và dấu hiệu bẫy người khác phạm tội” do tôi viết và được trang thông tin điện tử Bauxite Việt Nam đăng tải để làm chứng cứ buộc tội tôi. Trong bài này tôi tố giác công an quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã bắt giam bà Trần Khải Thanh Thủy trái pháp luật dựa trên phân tích các thông tin do chính công an quận Đống Đa cung cấp cho báo chí. Như vậy lẽ ra công an quận Đống Đa, công an thành phố Hà Nội và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác phải làm rõ những dấu hiệu tội phạm mà tôi đã nêu thì ngược lại các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội lại biến việc tôi tố giác tội phạm thành tội phạm. Nói cách khác hành vi trên của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội là hành vi hủy diệt quyền tố giác tội phạm của công dân hay nói thẳng ra là hành vi bao che tội phạm. Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng đã vu khống tôi khi cho rằng việc tôi tố giác tội phạm nói trên của công an quận Đống Đa là hành vi “xuyên tạc, phỉ báng chính quyền”. Thực vậy, công an nói chung, công an quận Đống Đa nói riêng không phải là chính quyền. Từ điển bách khoa Việt Nam – do Chính phủ tổ chức biên soạn – định nghĩa “Công an” là “lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự chung của một Nhà nước”. Nhân đây cũng phải phân biệt rõ nhà nước với các cơ quan cấu thành bộ máy Nhà nước. Nhà nước được xác lập bởi những nguyên tắc như đã được xác định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), bộ máy nhà nước được được xác lập bởi những cơ quan và con người cụ thể. Các cơ quan Nhà nước và các cá nhân trong các cơ quan này đều có thể có những hành vi phạm tội, thậm chí chống lại chính nhà nước mà họ có nghĩa vụ phục vụ.

Nhân đây, tôi sẵn sàng làm việc với cơ quan điều tra về vụ án “Bà Trần Khải Thanh Thủy cố ý gây thương tích” để không làm oan người vô tội và trừng trị những kẻ đã gài bẫy bà Thủy là những kẻ bao che tội phạm này.

8) Thực hiện quyền tự do ngôn luận, quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp được Hiến pháp và Công ước quốc tế về các quyền về dân sự và chính trị 1966 bảo hộ không phải là tội phạm.

Thực vây, Điều 69 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) quy định; “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”; Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 mà Việt Nam là thành viên quy định tại khoản 1 “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” (Luật ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 6: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Điều ước Quốc tế”). Như vậy, việc tôi viết các bài để đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng và việc tôi trả lời phỏng vấn của báo chí trong hay ngoài nước chính là thực hiện “quyền tự do ngôn luận” và “quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” của công dân được luật pháp bảo hộ.

9) Thực hiện “quyền được thông tin” được Hiến pháp bảo hộ không phải là tội phạm.

Các cơ quan tiến hành tố tụng nói trên của thành phố Hà Nội đã dẫn ra các bài:

- “Bom áp nhiệt nổ giữa Ba Đình” do tác giả Nguyễn Thanh Ty viết, ví tôi như liệt sỹ Phạm Hồng Thái đánh bom kẻ cầm quyền;

- “Phải Đa đảng mới chống được lạm quyền” do Đài Á Châu Tự do (RFA) phỏng vấn tôi;

- “Chiến tranh Việt Nam và ngày 30/4 dưới mắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ” do Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) phỏng vấn tôi;

- “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ từ khởi kiện Thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp” do Đài tiếng nói Hoa Kỳ phỏng vấn tôi;

- “Phóng viên Trâm Oanh Tổ chức không biên giới – Cộng hòa Liên bang Đức phỏng vấn Cù Huy Hà Vũ” để làm chứng cứ buộc tội tôi.

Trước hết, phải khẳng định rằng tôi không “làm ra” các tài liệu này. Ngoài bài “Bom áp nhiệt nổ giữa Ba Đình” là của tác giả Nguyễn Thanh Ty như cơ quan an ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội và Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã thừa nhận thì tác giả của các bài phỏng vấn không phải là tôi mà là người phỏng vấn tôi, cụ thể ở đây là Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), Đài Á Châu Tự do (RFA), phóng viên Trâm Oanh (Tổ chức không biên giới Cộng hòa Liên Bang Đức). Thực vậy, đại từ điển tiếng Việt – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2007 định nghĩa “Phỏng vấn” là “Hỏi ý kiến một nhân vật nào về một vấn đề được nhiều người quan tâm để công bố lên đài, báo”. Như vậy, đứng ở góc độ của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội thì họ chỉ có thể quy cho tôi hành vi “Tàng trữ tài liệu tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Thế nhưng, sự quy kết này là hoàn toàn trái “Quyền được thông tin” được Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) bảo hộ tại Điều 69 như trên đã đề cập. Điều 146 Hiến pháp còn quy định: “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”, đồng nghĩa hành vi “tang trữ tài liệu tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bị vô hiệu hóa.

Tóm lại, các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội quy kết tôi phạm tội do đã có hành vi “Tàng trữ” các tài liệu mà theo các cơ quan tiến hành tố tụng này có nội dung “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là hoàn toàn trái với “Quyền được thông tin” của công dân được Hiến pháp bảo hộ và do đó là hành vi xâm phạm Hiến pháp. Nói cách khác, với “Quyền được thông tin” của công dân được Hiến pháp bảo hộ, tôi có quyền tìm kiếm và lưu trữ bất cứ thông tin, tài liệu nào mà tôi quan tâm, huống hồ những thông tin, tài liệu liên quan đến tôi, mà không ai có quyền can thiệp.

10) Pháp luật nghiêm cấm truy nã tư tưởng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng trên của thành phố Hà Nội đã dẫn các bài:

- “Bàn về Đảng cầm quyền” với ghi chú “Vũ viết chưa xong”;

- “Đường sắt cao tốc Bắc – Nam – Dự án tham nhũng” với ghi chú “Vũ trả lời phỏng vấn Đài VOA thời gian năm 2010, nhưng Vũ chưa đồng ý nội dung nên Đài VOA chưa đăng tải. Tài liệu này Vũ lưu giữ trong máy tính xách tay, USB” để làm chứng cứ buộc tội tôi. Thế nhưng cả hai tài liệu này đều chưa được “làm ra” vì chưa được công bố.

Có thể ví những bài viết, bài phỏng vấn nói trên như cái thai còn nằm trong bụng mẹ, hay nói cách khác là chưa ra đời. Vậy một khi chưa ra đời thì cái thai không thể bị quy kết là gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, buộc cái thai phải ra khỏi lòng mẹ mà không có sự đồng ý của người mẹ chỉ có thể là tội ác. Cũng như vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội cưỡng đoạt những tài liệu lưu trữ trong máy vi tính xách tay mà tôi sử dụng để quy kết tôi đã làm ra các tài liệu ấy dứt khoát là hành vi tội ác. Tóm lại, các tư tưởng quan điểm tôi còn đang thai nghén, chưa được công bố thì dứt khoát không thể là hành vi và vì vậy là truy nã tư tưởng, điều mà pháp luật nghiêm cấm.

Với chứng minh trên, tôi yêu cầu Hội đồng Xét xử tuyên tôi không phạm tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và ngay lập tức trả tự do cho tôi.

Nếu tôi bị kết án, lịch sử và Nhân dân Việt Nam nhất định phá án cho tôi!.

Cảm ơn Hội đồng xét xử đã chú ý lắng nghe.

Người Việt Nam yêu nước

Cù Huy Hà Vũ

Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.