Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Tiểu sử tóm tắt về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu

VRNs (01.10.2011) - Sài Gòn - THÉRÈSE MARTIN sinh ở Alencon,nước Pháp,ngày 2 tháng 1 năm 1873. Hai hôm sau, Ngài được rửa tội tại Nhà Thờ Đức Bà và nhận các tên thánh là MARIE FRANCOISE THÉRÈSE. Cha mẹ Ngài là Ông Bà Louis Martin và Zélie Martin. Sau khi Mẹ Ngài mất ngày 28 tháng 8 năm 1877, Têrêxa và gia đình cư ngụ tại Lisieux.



Khỏang cuối năm 1879, lần đầu tiên Ngài được nhận bí tích Giải Tội. Ngày lễ Hiện Xuống năm 1883, Ngài nhận được ơn chữa lành bệnh đặc biệt khỏi một bệnh nặng, nhờ lời chuyển cầu của Đức Bà Chiến Thắng. Được các Chị Dòng Biển-Đức ở Lisieux dạy dỗ, Ngài được rước lễ lần đầu ngày 8 tháng 5 năm 1884, sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng. Mấy tuần sau,ngày 14 tháng 6 năm ấy, Têrêxa nhận Bí tích Thêm-Sức, đón nhận với hết ý thức hồng ân Chúa Thánh Thần.

Ngài ước ao sống đời chiêm niệm, như các chị của Ngài là Pauline và Marie, trong Dòng Carmel ở Lisieux, nhưng chưa đủ tuổi để được chấp nhận. Trong cuộc du hành sang Ý, sau khi đã viếng Nhà Lorette và Giáo-đô, trong một buổi triều kiến Đức Thánh Cha khấng ban cho khách hành hương địa phận Lisieux ngày 20 tháng 11 năm 1887, Ngài xin ĐứcThánh Cha Léo XIII cho phép được vào Dòng Kín ở tuổi 15. Ngày 9 tháng 4 năm 1888, Ngài vào Dòng Kín Lisieux. Ngài mặc áo ngày 10 tháng 1 năm sau đó và tuyên khấn ngày 8 tháng 9 năm 1890, nhằm ngày lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria.

Trong Dòng Kín, Ngài dấn thân vào con đường trọn lành do Mẹ Bề Trên sáng lập Dòng, Mẹ Têrêxa Giêsu, với một lòng sốt sắng và trung thành thật sự, bằng cách hòan thành nhiều việc phục vụ cộng đoàn mà Ngài được giao. Được Lời Chúa soi dẫn, bị thử thách rất nặng do bệnh tật của người cha yêu dấu, Ông Louis Martin mất ngày 29 tháng 7 năm 1894, Ngài tiến tới sự thánh thiện, nhờ đọc Phúc Âm, đặt tình yêu Chúa ở giữa tất cả.

Trong các bản tự truyện viết tay, Têrêxa để lại cho chúng ta không chỉ những kỷ niệm về thời thơ ấu và tuổi trẻ của Ngài, mà còn cho thấy chân dung linh hồn Ngài, những kinh nghiệm riêng tư nhất được Ngài diễn tả. Ngài khám phá ra và truyền đạt chia sẽ cho các tập sinh được ủy thác cho Ngài, CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG. Ngài được nhận như một món quà đặc biệt nhiệm vụ theo sát bằng hy sinh và lời cầu nguyện “hai thừa sai anh em kết nghĩa”. Càng lúc Ngài càng thâm nhập sâu vào Mâu Nhiệm Giáo Hội và cảm thấy nẩy nở trong Ngài Ơn Gọi tông đồ và truyền giáo, để lôi kéo mọi người theo Ngài, vì tỉnh yêu Chúa Kitô, vị Hôn Phu duy nhất.

Ngày 9 tháng 6 năm 1895, ngày lễ Chúa Ba Ngôi, Ngài tự hiến là lễ vật tòan thiêu dâng lên Tình Yêu Hay Thương Xót của Chúa. Ngài ghi chép cuốn tự truyện viết tay đầu tiên, mà Ngài trao cho Mẹ Angès ngày lễ của Mẹ, 21 tháng 1 năm 1896. Vài tháng sau, ngày 3 tháng 4, giữa đêm khỏang thứ năm và thứ sáu Tuần Thánh, Ngài bị thổ huyết, biểu hiện đầu tiên của căn bệnh dẫn tới cái chết của Ngài, mà Ngài đón nhận như là một cuộc viếng thăm nhiệm mầu của Vị Hôn Phu Cao Quang. Lúc ấy, Ngài chịu một cơn thử thách đức tin kéo dài cho tới khi Ngài chết, nhưng trong các sách Ngài viềt, Ngài đã cho thấy Ngài là nhân chứng kiên trung dường nào. Tháng 9, Ngài hòan tất Tập Bút Ký B cho thấy sự trưởng thành đến kinh ngạc trong sự thánh thiện, đặc biệt là việc Ngài khám phá ra Ơn Gọi của mình trong lòng Giáo Hội.

Trong khi sức khỏe Ngài ngày càng sa sút và thời khắc thử thách tiếp tục, vào tháng 6, Ngài bắt đầu viết Tập bút ký C dâng tặng cho Mẹ Marie Gonzague. Những ân huệ mới dẫn đưa Ngài vào một con đường trọn lành cao hơn và Ngài khám phá được những ánh sáng mới cho sự phổ biến thông điệp của Ngài trong Giáo-Hội vì lợi ích của những tâm hồn sẽ ttheo con đường của Ngài. Ngày 8 tháng 7, Ngài được chuyển tới phòng bệnh. Các Chị của Ngài và các nữ tu khác ghi nhận những lời của Ngài, trong khi những cơn đau và thử thách, được Ngài kiên nhẫn chịu đựng, ngày càng dày hơn, cho đến khi NGÀI TẮT THỞ SAU TRƯA NGÀY 30 THÁNG 9 NĂM 1897. «Tôi không chết, tôi đi vào sự sống”, Ngài đã viềt như thế cho người em tinh thần làm thừa sai, Cha M.Bellier. Những lời cuối cùng của Ngài: «Lạy Chúa…con yêu Chúa!”, đóng lại một cuộc đời vừa tắt trên trái đất ở tuổi 24, để được vào, như Ngài mong ước, trong một giai đọan mới trong sự các thánh thông công, để làm mưa hoa hồng xuống trên thế gian.

Ngài được Đức Piô XI phong hiển thánh ngày 17 tháng 12 năm 1925 và được tôn làm Bổn Mạng Hòan vũ các xứ truyền giáo, đồng thời với Thánh Phanxicô Xaviê, do chính Đức Piô XI vào ngày 14 tháng 12.1927.

Học thuyết và gương thánh thiện của Ngài đã được tất cả mọi tầng lớp tín hữu thế kỷ nầy đón nhận với lòng nhiệt tình lớn la và kể cả ở ngòai Giáo Hội Công-giáo và ngòai Kitô-giáo. Rất nhiều Hội-nghị Giám-Mục, nhân dịp Bách chu niên ngày Ngài mất, đã xin với Đức Giáo Hòang tôn vinh Ngài làm Tiến-sĩ Hội-Thánh, vì sự vững chắc của sự khôn ngoan thiêng liêng, được linh hứng bởi Phúc Âm; bởi sự độc đáo của những trực giác thần học, nơi đó chiếu rạng học thuyết kiệt xuất của Ngài và bởi sự đồng nhất đón nhận thông-điệp của Ngài khắp hòan vũ và các tác phẩm của Ngài đã được dịch ra hơn 50 thứ tiếng trên thế giới.

Tiếp nhận những nguyện ước ấy, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn Bộ Phong Thánh, cùng với ý kiến của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, nghiên cứu thời điểm để tuyên bố Thánh Têrêxa Lisieux TIẾN SĨ HỘI THÁNH, trong những gì liên quan tới học thuyết lỗi lạc của thánh nữ. Ngày 24 tháng 8 năm 1997, sau khi cử hành Thánh Thể Ngày Giới Trẻ Thế Giới Lần thứ XIII tại Paris, trước sự hiện diện của hàng trăm Giám-mục và trước một đám đông mênh mông giới trẻ của tòan thế giới, Đức Gioan-Phaolô II đã tuyên bố dự tính của Ngài TÔN VINH THÁNH NỮ TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU LÀM TIẾN-SĨ HỘI THÁNH vào ngày 19 tháng 10 năm 1997,Chúa Nhật Truyền-Giáo.

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ