Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Cuộc chạy đua chức tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF/FMI)

VRNs (26.05.2011) - Geneva - Bản Tin AFP (Par Hugues HONORÉ) từ Washington, ngày 21.05.2011, cho thấy Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF/FMI) cấp bách chọn Tân Tổng Giám đốc thay thế Cựu Tổng Giám đốc Dominique STRAUSS-KAHN nội trong tháng 6 tới này:



“WASHINGTON, 21 mai 2011 (AFP) –

Le conseil d’administration, composé des représentants de 24 pays et groupes de pays, prendra à partir de lundi et jusqu’au 10 juin les candidatures. Il s’est fixé pour “objectif” de désigner un nouveau dirigeant “d’ici au 30 juin”.

(Hội Đồng Quản Trị, gồm những Đại diện Quốc gia hay Nhóm Quốc gia, sẽ nhận bắt đầu từ thứ hai và tới 10 tháng sáu những ứng viên. Hội Đồng nhằm chỉ định một người Lãnh đạo mới « từ nay tới 30 tháng sáu «

Đài RFI (Radio France Internationale) phỏng vấn chúng tôi để phát thanh về Việt Nam với 6 câu hỏi gợi ý mà chúng tôi trả lời tóm tắt sau đây :

1) Ngược dòng lịch sử IMF được thành lập trong bối cảnh nào , để làm gì?

Phải đi ngược dòng Lịch sử thành lập FNI để hiểu truyền thống những sinh hoạt của nó. Năm 1944, các Tiền Aâu châu bị mất hết Vàng bảo chứng trong Chế độ Bản vị Vàng (Régime Etalon-Or). Vì vậy Hoa kỳ triệu tập Hội Nghị Tiền tệ Bretton Woods 1944. Hội nghị quyết định hai điều cơ bản :

=> Chọn một đồng Tiền còn Vàng làm bảo chứng. Hồi ấy chỉ có đồng Franc Thụy sĩ và đồng Đollar Mỹ còn Vàng. Nhưng vì Thụy sĩ là nước nhỏ bé không có khả năng chịu đựng số Tiền khổng lồ lưu hành khắp Thế giới, nên Hội nghị chọn đồng Dollar . Dollar làm trung gian giữa Vàng và các Tiền khác mà người ta gọi là Chế độ Bản vị Dollar-Vàng (Régime Etalon-Devise (Dollar)-Vàng. Việc chọn lựa Dollar này đã bị Staline kết án, gọi là « Impérialisme du Dollar »

=> Lập Quỹ Tương trợ Tiền tệ (Caisse d’Entraide Monétaire) mà người ta gọi là FMI. Đây là Quỹ hỗ trợ Tiền tệ giữa các Thành viên gồm chính yếu là Hoa kỳ và Aâu châu. Mục đích căn bản của Quỹ là hỗ trợ về Tiền tệ cho Quốc gia thành viên bị khủng hoảng về Tiền tệ. Vì Âu châu kiệt quệ do Thế chiến II, nên khi thành lập Quỹ tương trợ này, Hoa kỳ đóng vào tới 80%.

Từ 45 nước Hội viên ban đầu, số Hội viên ngày nay tăng lên 185 nước. Số quỹ đóng vào hiện nay là 338 tỉ Đo-la (tài liệu 30.09.2007). Ngoài ra IMF có số dự trữ Vàng tính theo thời giá cuối tháng 9/2007 là 77 tỉ Đo-la. Điều khoản I của Quy chế xác định những mục đích hoạt động sau đây:

=> Hợp tác Tiền tệ quốc tế
=> Khuếch trương phát triển Thương mại quốc tế
=> Giữ thăng bằng về Hối suất Tiền tệ
=> Tương trợ hệ thống Thanh toán đa phương quốc tế
=> Tương trợ những nước Hội viên khi gặp những khó khăn Thanh toán quốc tế
=> Cho vay vốn để bảo đảm phát triển Kinh tế bền vững và đề phòng Khủng hoảng
=> Tự mình hoặc hợp tác với Ngân Hàng Thế Giới trong việc làm giảm nghèo đói

Sau này số Thành viên tăng lên gồm những nước khác. Nhưng những nước này chỉ xin vay mà không đóng góp đáng kể vào Quỹ. Nhiều nước vay, không đóng góp vào Quỹ mà còn ăn quỵt nữa.

Dần dần, trong thời không có Khủng hoảng về Tiền tệ, thì FMI đặt thêm mục đích thứ hai là giúp đỡ những Chương trình Phát triển Kinh tế cho những nước nghèo. Nhưng đây không phải là mục đích chính yếu từ khi thành lập FMI. Trong thời chưa có đồng Euro duy nhất, nghĩa là mỗi Quốc gia Aâu châu có đồng Tiền riêng. Giữa các đồng Tiền có những chênh lệch Tỷ giá mà người ta gọi là « Serpent Monétaire « , FMI cũng can thiệp vào để giúp những đồng Tiền yếu khi xuống đến biên độ mà nước đó không thể cứu vãn được.

Việc thành lập FMI và mục đích chính hoạt động của nó là giữa Hoa kỳ và Aâu châu. Hoa kỳ đóng góp rất nhiều vào FMI nhưng không muốn đứng đầu để bị công kích là sử dụng Quỹ như phương tiện thống trị « Impérialisme du Dollar « . Hoa kỳ dành cho Aâu châu điều hành bởi lẽ chính Aâu châu mới có những đồng Tiền mạnh mang tầm ảnh hưởng đến những cựu thuộc địa và Thương mại quốc tế. Cái truyền thống này đã có từ khi thành lập FMI với mục đích Tiền tệ của nó.

2) Người ta cho là IMF là định chế tài chính của kẻ giàu còn Ngân hàng Thế giới là giúp nước nghèo? Đúng không?

Mục đích thành lập IMF là tạo một Quỹ tương trợ về Tiền bạc khi có khủng hoảng hay một nước có đồng Tiền yếu đi do Kinh tế đi xuống. Trong lúc ấy IMF cho vay quỹ tương trợ để nâng đỡ. Trong suốt những năm trường IMF làm việc với những nước giầu khi gặp khủng hoảng. Quỹ IMF thoát thai từ một Hội Nghị về Tiền tệ, đặt mục đích chính là cứu giúp Tiền tệ, chứ không đặt mục đích chính là cứu giúp những nước nghèo về xã hội hay về phát triển Kinh tế.

Ngân Hàng Thế giới đặt mục đích giúp những nước nghèo về xã hội hay phát triển Kinh tế. Mỗi Tổ chức làm việc theo mục đích đã định. Không thể phê bình lẫn lộn giữa hai Tổ chức.

3) Thực tế họ giúp đơ tài chính với những điều kiện ra sao mà bị giới công đoàn và kinh tế gia cánh tả chống đối quá?

IMF/FMI không giúp đỡ Tài chánh hiểu như quà tặng rồi quên đi. IMF/FMI cho vay Tài chánh từ Quỹ tương trợ hay làm trung gian vay dùm từ những quốc gia có khả năng tiền bạc. Dầu từ Quỹ hay từ những quốc gia khác, khi nói đến cho vay, thì người vay phải hoàn trả. Để bảo đảm hòan trả, người xin vay phải chịu những điều kiện phải thi hành để có khả năng hoàn trả. Một trong những điều kiện người vay phải thắt lưng buộc bụng, không được hoang phí. Hiện nay, tại một số nước Âu châu như Bồ Đào Nha, Hy Lạp…, những công đoàn hay những Kinh tế gia phía tả công kích điều kiện thắt lưng buộc bụng, thuế cao, kéo dài tuổi làm việc… Họ công kích bởi vì họ có thể hiểu lầm rằng đây là tiền giúp đỡ xã hội cho không, chứ không phải là tiền vay mượn.

Lấy tỉ dụ cuộc Khủng hoảng Tài chánh Á châu năm 1997 để thấy những điều kiện mà IMF/FMI đòi hỏi khi cho vay Tiền. Khủng hoảng Tài chánh Á châu tàn phá rất nhanh chóng nền Kinh tế của 4 nước Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương và Nam Hàn. Những nước như Tân Gia Ba, Đài Loan và Nhật Bản không bị ảnh hưởng hay nói đúng hơn họ có khối dự trữ Tài chánh vững chắc để chống đỡ cơn Khủng hoảng. Nói như vậy cũng có nghĩa rằng những nước Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương và Nam Hàn không đủ phương tiện tài chánh dự trữ để có thể chống được cơn lốc Khủng hoảng.

Nơi cầu cứu phương tiện Tài chánh để chống đỡ và phục hồi nền Kinh tế, đó là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). IMF đồng ý cho vay Tài chánh, nhưng với điều kiện là những nước này phải chấp nhận những cải cách những điểm yếu làm lý do chính sụp đổ nền Kinh tế. Hai lý do sụp đổ, đó là hệ thống quản trị Xí nghiệp và hệ thống Ngân Hàng điều hành Tài chánh. Theo Bà Francoise NICOLAS, Mã Lai đã không vay Tài chánh của Quỹ Tiền tệ Quốc tế vì không muốn những can thiệp của IMF/FMI động chạm trực tiếp đến quyền lực Chính trị vào Kinh tế của nước họ đầy tham nhũng cấu kết giữa Chính trị và những Gia đình giữ Kinh tế. Bà Francoise NICOLAS viết: “En Malaisie,…., les connections étroites entre les pouvoirs politiques et économique sont toujours à l’ordre du jour,… Selon Transparency International,…, le niveau de corruption est comparable en Malaisie en 2005 à ce qu’il était en 1995“ (Tại Mã Lai,…, những liên hệ chặt chẽ giữa quyền lực chính trị và kinh luôn luôn hiện diện,… Theo Tổ chức Trong suốt Quốc tế,…, mức độ tham nhũng tại Mã Lai có thể so sánh năm 2005 vẫn còn giống như năm 1995). Đó là những lý do khiến Mã Lai không muốn nhận Tài chánh của IMF với những điều kiện can thiệp trực tiếp vào Kinh tế của mình.

Đối với những nước khách chấp nhận sự can thiệp của IMF/FMI, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đòi buộc điều kiện chính yếu:
=> Những cải tổ về Quan trị Xí nghiệp đề nghị từ IMF
=> Những cải tổ hệ thống Ngân Hàng đề nghị từ IMF

4) Vai trò của IMF và người patron của nó?

Truy về nguồn gốc thành lập, thì mục đích của FMI là cho những nước gặp Khủng hoảng Tiền tệ vay số vốn từ các Thành viên đóng góp vay để giải quyết khủng hoảng. Đây là quỹ cho vay và nước đó phải hoàn trả chứ không phải là quỹ tặng không. Vì vậy vai trò của FMI phải quan tâm đến những vấn đề sau đây :

=> Thẩm định tình trạng khủng hoảng để định lượng số Tiền cho vay là bao nhiêu để có thể giải quyết.
=> Thẩm định khả năng hoàn trả lại số Tiền cho vay
=> Đặt những điều kiện Kinh tế, Tiết kiệm cho nước muốn vay để bảo đảm việc hoàn trả lại Tiền.

Trong Lịch sử can thiệp lớn của FMI, có bốn trường hợp can thiệp lớn :

* Trường hợp những tỷ giá chênh lệch giữa các đồng Tiền Aâu châu.
* Trường hợp Khủng hoảng Tài chánh Á châu năm 1997
* Trường hợp Khủng hoảng Tài chánh/kinh tế Thế giới 2007-2009
* Trường hợp nợ nần của một số quốc gia thuộc Liên Aâu làm xao động đồng Euro.

Vai trò của Patron của FMI không phải chỉ là một Chuyên viên Tài chánh, Tiền tệ (Technocrate financier et monétaire) mà còn phải là một người Chính trị có khả năng « Négociateur « với các Quốc gia để tìm vốn đóng góp.

5) Tại sao vẫn giữ truyền thống Tổng Giám đốc phải là từ Âu châu mà chưa phải là từ những nước đang phát triển như Trung quốc, Ấn độ, Nga, Nam Phi, Brésil ?

Nhìn Lịch sử thành lập FMI và mục đích hoạt động, thì Tổng Giám đốc phải là Mỹ hay Aâu châu. Nhưng Mỹ tránh tiếng là dùng FMI để thống trị, nên dành cho Âu châu vì dầu sao về Tiền tệ thì Mỹ và Âu châu vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc thanh trả quốc tế.

Nhóm BRICS (Brésil, Russie, Inde, Chine, Afrique du Sud ), mỗi nước đang phát triển này cũng có những người được đề cữ :

Brésil : Ông Guido MANTEGA
Russie : Ông Grigori Martchenko MARTCHENKO
Inde : Ông Montek Singh AHLUWALIA
Chine : Chưa đề nghị một tên rõ rệt
Afrique du Sud: Ông Trevor MANUEL

IMF/FMI được thành lập chính yếu từ những nước Hoa kỳ và Âu châu và mục đích chính là tương trợ Tiền tệ chứ không phải xã hội hay kinh tế nói chung. Hiện nayhai đồng Tiền chính trong những thanh trả quốc tế và dự trữ Ngân Hàng là Dollar và Euro. Vì vậy mà IMF/FMI, khi Mỹ muốn tránh tiếng « Impérialisme du Dollar », thì dành chức vụ Tổng Giám đốc này cho Âu châu theo truyền thống.

Riêng những nước đang phát triển thuộc BRICS, thì những lý do sau đây khiến việc nắm giữ IMF/FMI chưa thuận tiện :

=> Những giải quyết Tiền tệ quy tụ vào Hoa kỳ và Liên Âu, nên không thuận tiện để cho những nước như Brésil, Nga, Ấn độ, Trung quốc hay Nam Phi đứng đầu IMF/FMI để giải quyết Tiền tệ cho Hoa kỳ hoặc Liên Âu.
=> Đồng Tiền của những nước thuộc BRICS chưa mang tính cách phổ quát đối với thanh trả quốc tế hay dự trữ Ngân Hàng. Vì vậy để những nước này lãnh đạo IMF/FMI giải quyết của nước khác, chứ không phải tiền của mình, thì không tiện lợi.
=> Riêng Trung quốc, đồng Yuan còn là một đồng Tiền mà Nhà Nước sự dụng độc tài để quyết định. Đây là điều đi ngược với hệ thống Tiền tệ quốc tế. Thêm vào đó, Trung quốc đã nhiều lần lên tiếng muốn hạ bệ đồng Dollar để nâng đồng Yuan lên. Đây là điều mà Hoa kỳ cũng như Liên Âu chưa thể chấp nhận cho Tầu lãnh đạo IMF/FMI chuyên về Tiền tệ.
=> Lý do chung nữa là những người thuộc BRICS chưa đủ những kinh nghiệm thực tiễn truyền thống về Tiền tệ/Tài chánh mà Hoa kỳ và Liên Âu đã lâu đời quản trị.

6) Cuộc chạy đua thay thế DSK : có khả năng ai sẽ lên thay? Christine Lagarde? ưu điểm của nhân vật này và những chướng ngại ?

Theo Bản Tin của AFP từ Washington ngày 21.05.2011 mà chúng tôi trích dẫn trên đây, thì Liên Âu có thể đồng thuận đề cử Bà Christin LAGARDE, đương kim Bộ trưởng Kinh tế/Tài chánh của Pháp. Theo Đài EURONEWS, Bà Christin LAGARDE đã được những nước lớn của Liên Âu ủng hộ : Đức, Pháp, Anh và Ý.

Bà Christine LAGARDE có khả năng được lựa chọn thay thế Oâng STTRAUSS-KAHN vì Bà đã làm việc tại Hoa kỳ, đã là Bộ trưởng Kinh tế/Tài chánh, nghĩa là có khả năng liên hệ Chính trị cần cho những Négociations.

Tuy nhiên mấy điểm có thể mang đến không thuận lợi nhỏ:

=> Bà có thể thân TT.SARKOZY trong ý tưởng hạ bệ đồng Dollar theo như ý muốn của Trung quốc mà TT.SARKOZY mơn trớn trong một thời gian lúc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới.
=> Người ta nhắc lại việc Bà LAGARDE có liên hệ bênh đỡ Bernard TAPIE

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 26.05.2011