Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

Nhận diện người chăn thuê

VRNs (13.05.2011) – Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi linh mục, những vị được mệnh danh là mục tử.



Trên quê hương Việt Nam, đó đây đã từng xuất hiện các băng rôn với hàng chữ: “chúng con cần mục tử, không cần người chăn thuê”. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.

Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bằng lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân bất thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái của vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Nói rằng bạn chưa hoàn hảo thì chúng ta dễ chấp nhận ngay nhưng nếu nói rằng bạn xấu xa thì xem ra dễ có phản ứng. Hoặc giả như cho rằng bạn nói chưa đúng thì dễ chấp nhận nhưng nếu ai đó cho rằng chúng ta nói sai thì vấn đề lại trở thành trầm trọng. Một cách nào đó để tăng phần hiệu ứng thì thay vì khắc họa chân dung người mục tử nhân lành, chúng ta thử định hình khuôn mặt của người chăn thuê.

Cần khẳng định chắc chắn rằng Thiên Chúa, Chúa Kitô chỉ muốn trao ban cho chiên trong lẫn ngoài đàn những vị mục tử chứ không phải những người chăn thuê. Do đó việc phân biệt người chăn thuê với mục tử là việc đáng làm và phải làm. Nói đến phân biệt thì cần phải trình bày những điểm giống nhau và khác nhau giữa những gì chúng ta muốn phân biệt.

Dù có thể còn phiếm diện, nhưng xin mạo muội đề ra bốn nét tương đồng và bốn điểm khác biệt giữa mục tử với người chăn thuê. Trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:

1. Đi qua cửa chuồng chiên: Kẻ trộm thì thường leo rào mà vào, trái lại cả hai, mục tử và người chăn thuê đều đường đường chính chính đi qua cửa chuồng chiên. Chúa Kitô đã tự giới thiệu Người là cửa chuồng chiên (x.Ga 10,1-10). Như thế, nhiều người đã lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh thành sự, nói theo truyền thống là được truyền chức Phó tế, được thụ phong Linh mục hay được tấn phong Giám mục rất có thể chưa phải là những mục tử chính hiệu mà cách nào đó đang là những người chăn thuê.

2. Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.

3. Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8).

4. Cũng như mục tử, người chăn thuê dẫn chiên đến đồng cỏ và suối nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên.

Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ mục tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.

1. Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Một số người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên cách nào đó, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hay tiền công theo sản phẩm.

2. Làm hết giờ hơn là làm hết việc, nếu có làm hết việc nhưng khó hết tình: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì cần xét lại. Chuyện làm “hợp tác xã” trong nông nghiệp một thời ở xã hội Việt Nam như là một minh chứng. Khi người ta không thực sự thấy quyền làm chủ của mình trên mảnh đất cày cấy thì dù cán cuốc đang giơ lên mà trùng với tiếng kẻng báo hết giờ thì nó được nhẹ nhàng đặt trên vai chứ không cắm xuống đất để thêm một chút đất được tơi xốp.

3. Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương.

4. Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê.

Hy vọng rằng qua một vài nét phác họa chân dung người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo hội, thì còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Một chuyện xem ra quá lý tưởng đó là mong sao không hề có người chăn thuê trong đàn chiên của Thiên Chúa. Nếu chưa thể được thì ít là ngày càng bớt đi những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột