Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011

Tân Phúc Âm Hóa Để Truyền Bá Đức Tin Kitô Giáo (2)

VRNs (08.07.2011) – Sài Gòn – Hôm qua chúng ta đã cùng nhau đọc phần giới thiệu và Dẫn nhập của Đề cương làm việc cho THĐGM XIII bàn về tính cấp bách của cuộc tân phúc âm hoá, bổn phận rao giảng Tin Mừng, sứ vụ rao giảng Tin Mừng và việc phân định, việc rao giảng Tin Mừng trong thế giới hôm nay, bắt đầu từ những thách thức. Hôm nay chúng ta tiếp tục bước vào Chương thứ nhất.
VRNs rất sẳn sàng giới thiệu những ý kiến của quý vị ngay trên website này.



CHƯƠNG I – THỜI ĐIỂM CHO CUỘC “TÂN PHÚC ÂM HOÁ”

“… Làm sao họ kêu cầu Ðấng họ không tin? Làm sao họ tin Ðấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10:14)

5. “Tân phúc âm hoá”: Ý nghĩa của một định nghĩa

Tuy được biết đến nhiều và chắc chắn là một trong nhiều kế hoạch của Hội Thánh, “tân phúc âm hoá” (“new evangelization”) vẫn còn là một thuật ngữ và khái niệm tương đối mới mẻ trong các giới giáo hội học và mục vụ. Hậu quả là ý nghĩa của nó không phải luôn luôn rõ ràng và chính xác. Thuật ngữ này được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sử dụng lần đầu tiên trong chuyến tông du của ngài tới Ba Lan (11) mà không có sự nhấn mạnh hay ý tưởng chuyên biệt nào về vai trò của nó trong tương lai; nhưng sau đó nó đã được sử dụng lại và mặc lấy một sinh khí mới trong Huấn Quyền của Đức Thánh Cha cho các Giáo Hội tại Châu Mỹ Latinh. Đức Gioan Phaolô II dùng thuật ngữ này để đánh thức và khơi dậy lại những cố gắng canh tân trong một công cuộc mới về truyền giáo và rao giảng Tin Mừng tại châu lục này. Về phương diện này, ngài nói với các giám mục tại Châu Mỹ Latinh: “Việc kỷ niệm một nửa thiên niên kỷ rao giảng Tin Mừng tại đây hôm nay sẽ có đầy đủ ý nghĩa nếu các anh em giám mục, cùng với các linh mục và giáo dân, chọn nó làm mối cam kết của mình; không phải một cam kết về một cuộc tái-phúc âm hoá, mà là một cuộc phúc âm hoá mới: mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách biểu hiện của nó” (12).

Cho nên, “tân-phúc âm hoá” không phải là làm lại một cái gì đã làm không đầy đủ hay không đạt mục đích của nó, như thể hoạt động mới này là một sự phê phán mặc nhiên về thất bại của cuộc phúc âm hoá thứ nhất. Tân-phúc âm hoá cũng không phải là lại tiếp tục cuộc phúc âm hoá thứ nhất, hay đơn giản là lặp lại quá khứ.

Ngược lại, đây là sự dũng cảm mở ra những con đường mới để đáp lại những hoàn cảnh và điều kiện thay đổi mà Hội Thánh đang đối diện trong việc thực thi ơn gọi loan báo và sống Tin Mừng hôm nay. Trong quá khứ, Châu Mỹ Latinh đã từng đối diện với những thách thức mới (sự lan rộng của ý thức hệ cộng sản, sự xuất hiện của các giáo phái). Cuộc tân phúc âm hoá đã ra đời sau một tiến trình phân định được Hội Thánh tại Châu Mỹ Latinh thực hiện để xem xét và đánh giá toàn bộ tình hình.

Chính theo nghĩa này mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lấy lại thuật ngữ này và đưa vào các giáo huấn của ngài cho Hội Thánh hoàn vũ. “Ngày nay Hội Thánh phải đối diện với các thách thức khác và phải lao tới những biên cương mới, cả trong việc loan báo ban đầu ad gentes cũng như trong việc tân-phúc âm hoá những dân tộc đã từng được nghe loan báo Đức Kitô. Ngày nay tất cả các Kitô hữu, các Giáo Hội địa phương và Hội Thánh hoàn vũ đều được kêu gọi có cùng một lòng dũng cảm đã từng gợi hứng cho các vị truyền giáo xưa kia, và cùng một lòng sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần” (13).

Cuộc tân phúc âm hoá chủ yếu là một hoạt động thiêng liêng có khả năng lấy lại vào thời đại chúng ta lòng dũng cảm và hăng say của các Kitô hữu tiên khởi và các vị truyền giáo tiên khởi. Vì vậy nó đòi hỏi trước hết một tiến trình phân định về sức sống Kitô giáo và một sự duyệt xét lại những thành tựu và những khó khăn nó đã gặp. Về sau, Đức Gioan Phaolô II đã làm sáng tỏ ý tưởng của ngài về việc tân phúc âm hoá: “Hội Thánh hôm nay phải tiến một bước khổng lồ về phía trước trong nỗ lực tân phúc âm hoá của mình, và đi vào một giai đoạn mới của lịch sử trong hoạt lực truyền giáo của mình. Trong một thế giới mà khoảng cách được thu hẹp làm cho thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé hơn, cộng đoàn Hội Thánh phải củng cố sợi dây nối kết giữa các thành viên của mình, trao đổi các nghị lực và phương tiện sống, và dấn thân với tư cách tập thể cho một sứ mạng chung và độc đáo là loan báo và sống Tin Mừng. ‘Các Giáo Hội được gọi là các Giáo Hội trẻ cần đến sức mạnh của các Giáo Hội già và các Giáo Hội già cần đến chứng tá và sức bật của các Giáo Hội trẻ, để mỗi Hội Thánh nhận được sự phong phú của các Giáo Hội khác’ » (14)

Từ nay, trong tiến trình duyệt lại hoạt năng của việc “tân phúc âm hoá”, thuật ngữ này bây giờ có thể được chỉ về những nỗ lực canh tân của Hội Thánh để đáp ứng những thách thức mà xã hội và các nền văn hoá hôm nay, qua các thay đổi quan trọng của chúng, đang đặt ra cho đức tin Kitô giáo, cho việc loan báo và làm chứng đức tin ấy. Đối diện với những thách thức này, Hội Thánh không đầu hàng hay thu mình lại; ngược lại, Hội Thánh thực hiện một kế hoạch tái tạo sinh lực cho mình. Hội Thánh đặt Con Người Chúa Giêsu Kitô và sự gặp gỡ với Người vào tâm điểm suy tư của mình, vì biết rằng Người sẽ ban Thánh Thần của Người và cống hiến sức mạnh để loan báo và rao giảng Tin Mừng bằng những cách mới mẻ để có thể nói với các nền văn hoá hôm nay.

Hiểu theo cách này, khái niệm “tân phúc âm hoá” một lần nữa đã được lấy lại và giới thiệu trong các đại hội của các Thượng Hội Đồng Giám Mục của các châu lục, được cử hành để chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Lúc ấy, thuật ngữ này đã được chấp nhận trong tư tưởng mục vụ và giáo hội học tại các Giáo Hội địa phương, và được hiểu như đồng nghĩa với những cố gắng canh tân thiêng liêng về đời sống đức tin trong các Giáo Hội địa phương, bắt đầu bằng một tiến trình phân định những thay đổi trong các khung cảnh văn hoá và xã hội khác nhau và tác động của những thay đổi này đối với đời sống Kitô hữu, đọc lại ký ức đức tin và đảm lãnh những trách nhiệm mới cũng như phát sinh những nghị lực mới để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô một cách hân hoan và thuyết phục (15).

Về phương diện này, những lời của Đức Gioan Phaolô II nói với Hội Thánh tại Châu Âu rất rõ ràng và súc tích: “… một nhu cầu cấp bách đã nảy sinh cho việc ‘tân phúc âm hoá’, khi chúng ta ý thức rằng ‘Châu Âu hôm nay không thể chỉ dựa vào di sản Kitô giáo trước kia của mình: Nó phải có khả năng quyết định về tương lai của mình phù hợp với con người và sứ mạng của Đức Giêsu Kitô’” (16).

Tuy thuật ngữ này đã trở nên phổ biến trong Hội Thánh, nó đã không được chấp nhận đầy đủ và trọn vẹn trong các cuộc thảo luận trong Hội Thánh cũng như trong thế giới văn hoá. Một số người ngại sử dụng thuật ngữ này vì cho rằng nó có vẻ là một sự phê phán tiêu cực về quá khứ của Hội Thánh và có vẻ muốn loại bỏ một số trang trong lịch sử thời gần đây của các Giáo Hội địa phương. Một số khác, đặc biệt giữa những giáo phái Kitô khác, nghi ngờ rằng “tân phúc âm hoá” có thể là một sự nguỵ trang của Hội Thánh nhằm chiêu nạp tín đồ. (17).

Lại có một số khác nữa có khuynh hướng cho rằng thuật ngữ ngày có thể dẫn tới một sự thay đổi trong thái độ của Hội Thánh đối với những người không có tín ngưỡng, những người này bị coi là những đối tượng để thuyết phục chứ không phải là những người cùng nói chuyện trong khuôn khổ một cuộc đối thoại muốn nhìn thấy chúng ta qui tụ lại trong cùng một nhân loại trên con đường tìm kiếm sự thật về hiện hữu của chúng ta. Trong cuộc Tông Du đến Cộng Hoà Séc của ngài, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã muốn xua tan mối lo này và đưa ra một câu trả lời: “Tôi sực nhớ đến một lời mà Chúa Giêsu đã trích từ ngôn sứ Isaia, đó là đền thờ phải là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc (x. Is 56:7; Mc 11:17). Chúa Giêsu đang nghĩ đến ‘Sân của Dân Ngoại’ mà Người đã dọn sạch khỏi hoạt động bên ngoài để nó có thể trở thành nơi yên tĩnh cho những người Dân Ngoại nào muốn đến đó cầu nguyện với vị Thiên Chúa độc nhất, mặc dù họ không thể tham dự những mầu nhiệm chỉ được cử hành bên trong Đền Thờ. Nơi cầu nguyện cho mọi dân tộc, Chúa Giêsu nghĩ đến những người có thể nói là chỉ biết Thiên Chúa từ đàng xa; những người không hài lòng với các thần của họ, các lễ nghi và các thần thoại của họ; những người khao khát Đấng Tinh Tuyền và Đấng Cao Cả, mặc dù Thiên Chúa đối với họ vẫn còn là vị ‘Thần Vô Danh’ (x. Cv 17:23). Họ buộc phải cầu nguyện với vị Thần vô danh, nhưng bằng cách này họ đã phần nào chạm tới Thiên Chúa thật, mặc dù họ còn rất mù mờ về Người. Tôi nghĩ hôm nay Hội Thánh cũng phải mở ra một thứ “Sân của Dân Ngoại” nào đó để người ta có thể một cách nào đó chạm tới Thiên Chúa đang khi còn chưa biết Người và chưa đi vào được mầu nhiệm của Người, là mầu nhiệm được cử hành bởi đời sống bên trong của Hội Thánh. Ngày nay, ngoài việc đối thoại liên tôn, cần phải có một cuộc đối thoại với những người mà tôn giáo đối với họ là một cái gì xa lạ, những người không biết Thiên Chúa nhưng không muốn sống là người vô thần, trái lại muốn được lôi kéo đến gần Người, mặc dù họ không biết Người.” (18).

Là tín hữu, chúng ta cũng phải quan tâm đến những người theo thuyết bất khả tri và cả những người tự xưng mình là vô thần; những người này thường tỏ ra lo sợ khi nghe chúng ta nói đến “tân phúc âm hoá”, họ nghĩ rằng hoạt động truyền giáo của Hội Thánh nhắm đến họ như là mục tiêu hàng đầu. Dù sao, ngay cả những người này cũng phải suy nghĩ về vấn đề Thiên Chúa. Việc tìm kiếm Thiên Chúa đã làm phát sinh hệ thống đan tu ở phương Tây và cùng với nó là văn hoá phương Tây. Bước đầu tiên này của việc phúc âm hoá cố gắng giữ cho việc tìm kiếm Thiên Chúa luôn sinh động và duy trì cuộc đối thoại không chỉ với những người tuyên xưng một tôn giáo, mà cả với những người không coi tôn giáo là một phần thiết yếu của cuộc đời.

Hình ảnh về “Sân của Dân Ngoại” cho chúng ta thêm một yếu tố trong suy tư về việc “tân phúc âm hoá” bằng cách cho thấy rằng người Kitô hữu không bao giờ được từ bỏ sự bạo dạn trong việc loan báo Tin Mừng và tìm kiếm mọi phương thức tích cực để mở ra những con đường đối thoại, ở đó chúng ta có thể thảo luận về những mong đợi thâm sâu nhất của con người và lòng khát khao Thiên Chúa của họ. Sự bạo dạn này cho phép chúng ta đặt đúng bối cảnh vấn đề về Thiên Chúa qua việc chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân của mỗi người trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và kể lại ân huệ được ban không trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Việc này trước hết đòi hỏi sự tự đánh giá và thanh tẩy, để nhận ra những dấu vết của sự sợ hãi, mệt mỏi, hoang mang hay khép kín do tác động của các nhân tố văn hoá. Bước đi này phải được tiếp nối ngay lập tức bởi những cố gắng và sáng kiến mới, dựa vào ơn sủng của Chúa Thánh Thần, trong việc cảm nghiệm Thiên Chúa là Cha, và nhờ đó có thể truyền đạt kinh nghiệm này cho người khác nhờ sự gặp gỡ cá nhân của chúng ta với Đức Kitô. Đây không phải là những giai đoạn tiếp nối nhau theo thời gian; đúng hơn, đó là những hình thái thiêng liêng của đời sống Kitô giáo. Thánh Phaolô nói về những cách thái này khi ngài mô tả kinh nghiệm đức tin như là một sự giải phóng “khỏi quyền lực bóng tối” và là một cổng dẫn vào “… vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:13.14; cũng xem Rm 12:1.2). Đồng thời sự bạo dạn này không phải một cái gì hoàn toàn mới hay chưa từng được nghe nói trong Kitô giáo, bởi vì những dấu chỉ về sự bạo dạn này đã hiện diện trong các văn bản của các giáo phụ rồi (19).

6. Các bối cảnh của cuộc tân phúc âm hoá

Tân phúc âm hoá là một thái độ, một phong cách hành động dũng cảm. Nó là khả năng của Kitô giáo giúp ta biết cách đọc và cắt nghĩa các tình hình mới trong lịch sử loài người mà những thập niên gần đây đã trở thành những nơi để rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Các viễn tượng này đã được nhận ra và phân tích vào nhiều dịp khác nhau (20); chúng liên quan đến xã hội, các nền văn hoá, đời sống chính trị, dân sự và tôn giáo. Bối cảnh thứ nhất của tân phúc âm hoá là văn hoá. Ngày nay, chúng ta thấy mình đang sống trong một kỷ nguyên thấm nhuần chủ nghĩa tục hoá khiến con người mất đi khả năng nghe và hiểu những lời của Tin Mừng như là một thông điệp sống động và ban sự sống. Điều này đặc biệt đúng ở thế giới phương Tây, nơi mà các biến cố, các thay đổi trong xã hội và các lối suy nghĩ tác động sâu xa đối với lịch sử và căn tính của nó. Chủ nghĩa tục hoá xuất hiện trong các nền văn hoá của chúng ta hôm nay qua hình ảnh tích cực của sự giải phóng, của khả năng quan niệm về đời sống của thế giới và của nhân loại mà không cần đến thế giới siêu việt. Mặc dù đôi khi cũng có những ám chỉ về thái độ chống Kitô giáo, chống tôn giáo và chống giáo hội, nhưng chủ nghĩa tục hoá trong thời gian gần đây không mang tính chất phủ nhận Thiên Chúa, tôn giáo hay Kitô giáo một cách trực tiếp, thẳng thừng. Ngược lại, phong trào tục hoá đã có một màu sắc tinh tế hơn với những hình thức văn hoá thâm nhập vào đời sống hằng ngày của con người và nuôi dưỡng một não trạng gạt bỏ Thiên Chúa hoàn toàn hay một phần trong đời sống và ý thức con người. Bằng cách này, chủ nghĩa tục hoá đã xâm nhập đời sống Kitô hữu và các cộng đồng Hội Thánh, và đã trở thành không chỉ là một mối đe doạ bên ngoài đối với các tín hữu, mà còn là một cái gì phải đối diện từng ngày trong cuộc đời (21).

Đó là những biểu hiện khác nhau của cái gọi là văn hoá của chủ nghĩa tương đối. Hơn nữa, xu hướng này đang có những hệ luỵ nhân văn nghiêm trọng, nó đặt thành vấn đề cả các kinh nghiệm nhân văn cơ bản như mối quan hệ nam-nữ, ý nghĩa của sự sinh sản và của sự chết. Các dấu chỉ của cái nhìn tục hoá về cuộc đời có thể được htấy trong đời sống hằng ngày của các Kitô hữu, những người nhiều khi chịu ảnh hưởng, thậm chí bị chi phối hoàn toàn, bởi văn hoá hình ảnh với các khuôn mẫu và sức mạnh chống đối của nó. Không dễ thoát khỏi những cám dỗ về tính hời hợt và vị kỷ phát sinh từ một não trạng theo chủ nghĩa khoái lạc và hưởng thụ. “Cái chết của Thiên Chúa” mà nhiều nhà trí thức loan báo mấy thập niên trước đây đã mở đường cho một sự tôn thờ cá nhân vô bổ. Có nguy cơ thực sự là người ta đánh mất cả những yếu tố cơ bản của đức tin, đưa họ rơi vào tình trạng thui chột thiêng liêng và tâm hồn trống rỗng, hay ngược lại, chọn những hình thức thay thế tôn giáo và thái độ tâm linh mơ hồ. Trong một khung cảnh như thế, việc tân phúc âm hoá là một sự cổ vũ cần thiết cho những cộng đồng mệt mỏi để khám phá lại niềm vui của kinh nghiệm Kitô giáo, tìm lại “tình yêu ban đầu đã mất” (Kh 2:4), và lấy lại ý nghĩa đích thực của tự do trong cuộc tìm kiếm sự thật.

Trong khi ấy, tại những vùng khác trên thế giới, người ta nhận thấy một sự hồi sinh tôn giáo đầy hứa hẹn. Có rất nhiều khía cạnh tích cực trong việc tái khám phá Thiên Chúa và sự linh thánh trong các tôn giáo khác nhau, những khía cạnh này bị lu mờ bởi những hiện tượng của chủ nghĩa cực đoan muốn lợi dụng tôn giáo để biện minh cho bạo lực và đi tới mức khủng bố. Đó là một sự lạm dụng nghiêm trọng. “Không được phép sử dụng bạo lực nhân danh Thiên Chúa” (22).

Hơn nữa, con số các giáo phái đua nhau xuất hiện là một thách thức liên tục.

Sau khi vắn tắt đề cập đến khung cảnh văn hoá trên đây, bây giờ chúng ta tập trung bàn đến khung cảnh xã hội, trong đó hiện tượng di dân đại trà đang ngày càng buộc người ta rời bỏ quê hương của mình để đến những vùng đô thị, do đó làm thay đổi bản đồ sắc tộc của các thành phố, các quốc gia và các châu lục của chúng ta. Bởi thế, các xã hội của chúng ta đang trải nghiệm một sự gặp gỡ và pha trộn văn hoá chưa từng có trước đây, dẫn đến những hình thức làm suy đồi, xói mòn các tiêu chuẩn nền tảng cho đời sống, huỷ hoại các giá trị mà chúng ta tìm kiếm, và làm xấu đi chính những mối quan hệ nhân bản mà chúng ta dùng để xác định mình và tạo ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Trong tiến trình này, văn hoá trở nên rất linh hoạt và “trôi nổi”, không còn dành nhiều chỗ cho những truyền thống lớn của đời sống, gồm cả các truyền thống tôn giáo, cũng như nhiệm vụ của các truyền thống ấy là cống hiến khách quan cho ý nghĩa của lịch sử và căn tính của các cá nhân. Gắn liền với khung cảnh xã hội này là hiện tượng gọi là toàn cầu hoá, một hiện tượng không dễ hiểu, vì vậy đòi hỏi người Kitô hữu phải ra sức cố gắng trong việc phân định. Nếu chỉ xét đến khía cạnh kinh tế và sản xuất, thì toàn cầu hoá là một hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên, theo nghĩa tích cực, toàn cầu hoá có thể được coi như một cơ hội để tăng trưởng, ở đó loài người có thể học phát triển những hình thức liên đới mới và những cách thức mới để chia sẻ sự phát triển mọi sự vì lợi ích lớn hơn cho mọi người (23).

Trong tình hình ấy, tân phúc âm hoá có thể cống hiến cơ hội để không còn nhìn sứ mạng của Hội Thánh như là một hoạt lực bắc-nam hay đông-tây, nhưng là một hoạt lực vượt qua các ranh giới địa lý của các hoạt động truyền giáo trong quá khứ. Ngày nay, cả 5 châu lục đều là những cánh đồng truyền giáo. Chúng ta cũng phải tìm cách hiểu những khung cảnh và địa điểm trong cuộc sống mà đức tin vắng bóng, không chỉ vì nó bị cắt đứt với môi trường ấy, mà cũng vì nó chưa bao giờ có cuộc gặp gỡ. Vượt qua các biên giới địa lý của các hoạt động truyền giáo trong quá khứ có nghĩa là có khả năng nêu lên câu hỏi về Thiên Chúa vào mọi lúc trong cuộc gặp gỡ được tạo ra bởi sự pha trộn và xây dựng lại cấu trúc xã hội, một hiện tượng đang diễn ra hầu như ở mọi vùng trên thế giới.

Sự pha trộn sâu rộng của các nền văn hoá là cái nền để chúng ta tìm hiểu về khung cảnh lớn thứ ba, là khung cảnh ngày càng quyết định ảnh hưởng trên cuộc đời của các cá nhân và ý thức tập thể, đó là các phương tiện truyền thông xã hội, tuy đang cống hiến những khả thể to lớn cho Hội Thánh hôm nay, nhưng chúng cũng đặt ra một trong những thách thức lớn nhất đối với Hội Thánh. Các phương tiện truyền thông này, mặc dù ở giai đoạn đầu chỉ giới hạn vào thế giới công nghiệp, nhưng nay đã có thể ảnh hưởng rộng rãi tới mọi khu vực của các nước đang phát triển. Ngày nay, không một nơi nào trên thế giới mà các phương tiện truyền thông và văn hoá kỹ thuật số không thể vươn tới và tạo ảnh hưởng. Các phương tiện truyền thông xã hội đã mau chóng trở thành “diễn đàn” của đời sống công cộng và sự tương tác xã hội. Chắc hẳn rằng sự phổ biến văn hoá truyền thông này có những lợi ích lớn, gồm việc tiếp cận rộng rãi các thông tin; nhiều cơ hội hơn để hiểu biết, trao đổi và có những hình thức liên đới mới và khả năng xây dựng một “thế giới văn hoá” ngày càng lớn hơn, nhờ đó chúng ta có một di sản chung về các giá trị và một sự phát triển mạnh hơn về tư tưởng và cách diễn tả của con người.

Tuy nhiên các tiềm năng này không thể che giấu những nguy cơ nội tại khi người ta đẩy loại văn hoá này tới một thái cực, đó là thái độ tập trung ích kỷ vào bản thân mình và các nhu cầu cá nhân; thái độ quá đề cao các khía cạnh cảm xúc của các mối quan hệ và các ràng buộc xã hội; sự mất đi các giá trị khách quan của kinh nghiệm, suy tư và tư tưởng, những giá trị này nhiều khi bị giản lược vào việc xác nhận các cảm nghĩ cá nhân; sự tha hoá dần dần các chiều kích đạo đức và xã hội của đời sống khiến người ta coi những người khác chỉ như là cái gương hay khán giả của các hành động của bản thân mình; và sau cùng là sự hình thành của một nền văn hoá tập trung vào những cái mới lạ nhất thời, giây phút hiện tại và những vẻ hào nhoáng bề ngoài, trên thực tế là một xã hội không có khả năng nhớ lại quá khứ và không có ý thức về tương lai. Trong khung cảnh này, tân phúc âm hoá có nghĩa là các Kitô hữu cần phải chứng tỏ sự bạo dạn trong những “đấu trường mới” (aeropaghi) này, là nơi họ sống hằng ngày, và tìm ra những phương tiện và cách thức để bảo đảm rằng di sản giáo dục và tri thức của Hội Thánh được bảo tồn bởi truyền thống Kitô giáo phải đóng một vai trò trong những môi trường siêu-hiện đại này (24).

Khung cảnh thứ tư mà những thay đổi đòi hỏi hoạt động phúc âm hoá của Hội Thánh là lãnh vực kinh tế. Rất nhiều lần các giáo huấn của nhiều vị Giáo Hoàng đã lên tiếng tố giác tình trạng mất cân đối ngày càng tăng giữa bắc và nam bán cầu trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên và việc phân phối chúng, cũng như sự huỷ hoại môi trường. Tình trạng khủng hoảng kinh tế trường kỳ ngày nay cho thấy vấn đề sử dụng các nguồn lực vật chất vẫn chưa tìm ra được những nguyên tắc cho một thị trường toàn cầu có khả năng bảo vệ sự công bằng nhiều hơn trong các mối quan hệ giữa các dân tộc (25).

Mặc dù các phương tiện truyền thông ít nhấn mạnh các vấn đề này, nhưng xuất phát từ tiếng kêu của người nghèo, Hội Thánh phải ngày càng ý thức hơn về những mối quan tâm này và có những biện pháp cụ thể để giải quyết chúng.

Khung cảnh thứ năm là lãnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Chúng ta đang sống ở thời kỳ mà người ta vẫn chưa hết kinh ngạc trước những tiến bộ liên tục về nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Tất cả chúng ta đều kinh nghiệm được những lợi ích của sự tiến bộ này trong đời sống hằng ngày của chúng ta, và chúng ta đang trở nên ngày càng bị lệ thuộc vào chúng. Hậu quả là khoa học và kỹ thuật có nguy cơ trở thành những thần tượng mới ngày nay. Trong một thế giới số và toàn cầu hoá, khoa học có thể dễ dàng được coi như một tôn giáo mới mà chúng ta tìm đến với những câu hỏi liên quan đến sự thật và ý nghĩa, mặc dù chúng ta biết rằng những câu trả lời chỉ phiến diện và không hoàn toàn làm chúng ta thoả mãn. Đang xuất hiện những hình thức “ngộ ðạo” mới, coi kỹ thuật như là một dạng minh triết giúp tìm ra một cơ cấu tổ chức phù phép của đời sống cung cấp cho ta sự hiểu biết và ý nghĩa. Những dạng tôn giáo mới này cứ tăng lên từng ngày và cuối cùng dẫn tới chỗ làm cho việc thực hành tôn giáo trở thành một thứ liệu pháp đem lại sự thịnh vượng và thoả mãn tức thời.

Sau cùng, khung cảnh thứ sáu là đời sống dân sự và chính trị. Có thể mô tả một cách chính xác rằng những thay đổi diễn ra từ sau Công Đồng Vaticanô II là những thay đổi lịch sử. Sự sụp đổ của thế giới cộng sản đã kết thúc thời kỳ thế giới phương Tây bị chia thành hai khối, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do tôn giáo và cho các Giáo Hội kỳ cựu tái lập vị thế và cơ cấu của mình. Các lực lượng kinh tế, chính trị và tôn giáo mới đang xuất hiện trong nền chính trị toàn cầu từ những vùng như Châu Á và thế giới Ả Rập. Nó đã tạo ra một tình hình chưa từng có và hoàn toàn không được biết đến, giàu tiềm năng nhưng cũng đầy những nguy cơ và cám dỗ mới về sự thống trị và quyền lực. Trong khung cảnh này, Tin Mừng phải được loan báo bằng những nỗ lực theo các hướng sau đây: bổn phận tìm kiếm hoà bình; sự phát triển và giải phóng các dân tộc; sự cải thiện thể chế các guồng máy chính quyền quốc tế và quốc gia; việc xây dựng các mô hình giúp cho sự lắng nghe, chung sống, đối thoại và hợp tác giữa các nến văn hoá và tôn giáo khác nhau; sự bảo vệ các quyền của con người, của các dân tộc, và trên hết, của các nhóm thiểu số; nâng đỡ những thành phần dễ bị tổn thương nhất trong xã hội; bảo vệ môi trường và tham gia hoạt động cho tương lai của hành tinh chúng ta.

7. Người Kitô hữu đứng trước tình hình mới này

Một phản ứng tự nhiên trước những thay đổi này có thể là sự hoang mang và sợ hãi, vì những lúc giao thời này khiến chúng ta đặt câu hỏi về căn tính của mình và về chính nền tảng của đức tin chúng ta. Tuy nhiên, vào những lúc như thế, thái độ hợp lý sẽ là nghe theo những lởi kêu gọi thường được Đức Bênêđitô XVI gióng lên, đó là tham gia vào một cuộc phân định có phê phán về tình hình và đọc lại thời điểm hiện tại trong ánh sáng đức cậy Kitô giáo (26).

Học lại ý nghĩa đức cậy giúp cho người Kitô hữu khám phá ra họ có thể cống hiến gì trong thế giới họ đang sống qua những cuộc gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm và đối thoại với người khác; có thể chia sẻ gì trong tiến trình này và có thể diễn tả đức cậy này thế nào cho hiệu quả hơn để dẫn tới lòng kiên trì. Các khung cảnh mới mà chúng ta được mời gọi đối diện cũng đòi chúng ta phát triển một sự phê bình đối với những phong cách sống, những cơ cấu tư tưởng và giá trị, những ngôn ngữ được khai thác cho hoạt động truyền thông. Sự phê bình này đồng thời cũng phải là một sự tự phê bình về Kitô giáo ngày nay, vốn cần phải liên tục học lại để hiểu chính mình từ những nền tảng của mình.

Hoạt động trên tạo cho cuộc tân phúc âm hoá một sắc thái và sức mạnh riêng. Cuộc tân phúc âm hoá này phải xét đến những bối cảnh hiện nay của đời sống, quan sát những gì đang diễn ra và biết cách vượt qua một phản ứng tự vệ và sợ hãi ban đầu để thu thập những dấu chỉ về những điều gì là mới cùng với những thách thức và những điểm yếu tiềm tàng trong chúng. Vì vậy, một cuộc tân phúc âm hoá có nghĩa là làm việc trong các Giáo Hội địa phương của chúng ta để soạn ra một kế hoạch đánh giá những hiện tượng nói trên thế nào để có thể truyền bá Tin Mừng hi vọng một cách thực tế. Trong tiến trình này, Hội Thánh tự xây dựng mình bằng cách chấp nhận những thách thức và ngày càng trở thành những người kiến tạo văn minh của tình thương.

Một cuộc “tân phúc âm hoá” cũng có nghĩa là dũng cảm nêu vấn đề về Thiên Chúa trong bối cảnh của những vấn đề này, nhờ đó thoả mãn tính chuyên biệt của sứ mạng Hội Thánh và chứng tỏ rằng viễn tượng Kitô giáo soi sáng cho những vấn đề lớn của lịch sử một cách độc đáo như thế nào. Tân phúc âm hoá kêu gọi chúng ta đi vào đối thoại với những bối cảnh này, không bó gọn trong các cộng đoàn và các tổ chức của mình, nhưng chấp nhận thách thức dự phần vào những hiện tượng này để nói và làm chứng trong các bối cảnh này với tư cách những người trong cuộc. Đây là hình thức “chứng tá” (martyria) Kitô giáo trong thế giới hôm nay, bằng cách chấp nhận đối chất cả với những hình thức mới của chủ nghĩa vô thần hay chủ nghĩa thế tục cực đoan muốn loại bỏ vấn đề Thiên Chúa ra khỏi đời sống con người.

Trong một bối cảnh như thế, “tân phúc âm hoá” đối với Hội Thánh có nghĩa là duy trì một cách thuyết phục sự cố gắng của mình là làm cho mọi Kitô hữu hiệp nhất với nhau để làm chứng cho thế giới thấy sức mạnh tiên tri và biến đổi của sứ điệp Tin Mừng. Công lý, hoà bình, cuộc sống chung giữa các dân tộc và sự bảo vệ môi trường là những nét đặc trưng đã đánh dấu hành trình đại kết của mấy thập niên qua. Hiệp nhất cùng nhau, các Kitô hữu cống hiến cho thế giới những điều ấy như là những nơi để chúng ta làm rõ vấn đề về Thiên Chúa trong đời sống con người. Thật vậy, những điều này chỉ có được ý nghĩa đích thực nhất của chúng trong ánh sáng và dựa trên cơ sở của lời tình yêu mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Con của Người là Đức Giêsu Kitô.

8. “Tân phúc âm hoá” và nhu cầu linh đạo

Cố gắng nêu vấn đề về Thiên Chúa trong bối cảnh những vấn đề của con người thời nay một lần nữa đưa chúng ta tới sự ý thức về nhu cầu tôn giáo và linh đạo. Sự ý thức này đã bắt đầu xuất hiện với một sức mạnh mới, bắt đầu với những thế hệ trẻ. Những thay đổi trong các bối cảnh vừa nêu trên ảnh hưởng một cách tất yếu tới cách người ta nói và thực hành ý thức tôn giáo của họ. Chính Hội Thánh Công Giáo cũng chịu ảnh hưởng bởi hiện tượng này, nó cống hiến các nguồn lực và cơ hội cho việc rao giảng Tin Mừng đã được xét đến từ mấy thập niên trước. Các đại hội quốc tế giới trẻ, các cuộc hành hương đến các thánh điện xưa và nay và sự nở rộ các phong trào và các hiệp hội của Hội Thánh là những dấu hiệu rõ ràng về một cảm thức tôn giáo luôn luôn hiện hữu. Trong bối cảnh này, việc “tân phúc âm hoá” đòi Hội Thánh biết cách nhận ra những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần đang hoạt động, hướng dẫn và giáo dục dân chúng theo những biểu hiện của Thánh Thần để đạt tới một đức tin sáng suốt và trưởng thành, “cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của đức Kitô.” (Ep 4:13) (27).

Ngoài những nhóm mới được hình thành và là hoa quả đầy triển vọng của Thánh Thần, đời sống thánh hiến theo kiểu truyền thống và theo kiểu mới cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tân phúc âm hoá, đặc biệt khi chúng ta nhớ lại rằng trong lịch sử hai ngàn năm của Kitô giáo, tất cả các phong trào lớn về rao giảng Tin Mừng đều được gắn liền với các hình thức sống tinh thần triệt để của Tin Mừng. Cũng nằm trong cùng bối cảnh này là các cuộc gặp gỡ và đối thoại với các truyền thống tôn giáo lớn, đặc biệt các tôn giáo phương Đông, các hoạt động này đã được Hội Thánh thực hiện trong những thập niên gần đây và còn đang tiếp tục được tăng cường. Sự đối thoại này là một cơ hội đầy triển vọng để học và so sánh để thấy cho thế giới các tôn giáo khác quan niệm vấn đề tôn giáo như thế nào, nhờ đó Kitô giáo có thể hiểu biết sâu hơn về những cách thức mà đức tin Kitô giáo có thể lắng nghe và đáp lại cảm thức tôn giáo của mỗi người.

9. Các phương thức mới để “là Hội Thánh”

Các hoàn cảnh mới này trong sứ mạng của Hội Thánh làm chúng ta nhận ra rằng, rốt cuộc, thành ngữ “tân phúc âm hoá” đòi phải tìm ra những phương thức mới để rao giảng Tin Mừng hầu có thể “là Hội Thánh” trong những tình hình xã hội và văn hoá không ngừng thay đổi hôm nay. Kiểu phân chia truyền thống đã có từ lâu về sự phân chia thế giới thành “các nước Kitô giáo” và “các xứ truyền giáo”, mặc dù nó cho chúng ta một khái niệm rõ ràng, nhưng bây giờ được coi là hạn hẹp, quá đơn sơ và không còn áp dụng được cho tình hình hiện nay, nên không thể dùng làm tiêu chuẩn trong việc xây dựng các cộng đồng Kitô giáo nữa. Ngược lại, đời sống và việc thực hành Kitô giáo phải hướng dẫn suy tư này trong một tiến trình kiên trì để xây dựng những mô hình mới để “là Hội Thánh”, sao cho tránh được nguy cơ của chủ nghĩa bè phái và một “tôn giáo dân sự”, và giúp cho Hội Thánh, trong kỷ nguyên hậu-ý thức hệ hôm nay, có thể tiếp tục giữ vững căn tính của měnh như là một Hội Thánh truyền giáo. Nói khác đi, giữa các mô hình khác nhau của mình, Hội Thánh không được đánh mất hình ảnh của mình như là “người nhà” và “Dân của Thiên Chúa”. Cả ở những nơi mà Hội Thánh chỉ là một thiểu số hay bị kỳ thị, Hội Thánh không được đánh mất khả năng giữ mối tiếp xúc gần gũi với dân chúng trong đời sống hằng ngày của họ, để loan báo tại đó sứ điệp ban sự sống của Tin Mừng. Theo lời Đức Gioan Phaolô II, “tân phúc âm hoá” có nghĩa là xây dựng lại cơ cấu Kitô giáo của xã hội loài người và cơ cấu của chính các cộng đoàn Kitô giáo (28), và giúp Hội Thánh tiếp tục hiện diện “dưới mái nhà của các con cái của mình” (29) hầu sinh động hoá đời sống họ và dẫn đưa họ tới Nước Chúa đang đến.

Trong công việc phân định, có thể tìm thấy sự trợ giúp rất lớn từ các Giáo Hội Công Giáo Phương Đông cũng như các cộng đồng Kitô giáo mà trong quá khứ đã trải nghiệm hay nay còn đang trải nghiệm một đời sống ẩn náu, bị bách hại, bị gạt ra bên lề hay phải chịu sự bất bao dung về chủng tộc, ý thức hệ hay tôn giáo. Chứng tá của họ về đức tin, sự kiên trì, dũng cảm, lòng cậy trông không lay chuyển và trực giác của một số việc thực hành mục vụ của họ là những hồng ân cần phải được chia sẻ với những cộng đồng Kitô giáo đã từng có một quá khứ huy hoàng nhưng nay đang phải trải qua một thời kỳ thử thách gian nan. Đối với các Giáo Hội không quen sống đức tin của mình trong những hoàn cảnh họ là một thiểu số, thì việc lắng nghe kinh nghiệm của các Giáo Hội nói trên chắc chắn là một món quà đổ vào lòng họ sự tin tưởng cần thiết trong các cố gắng của việc tân phúc âm hoá.

Thời điểm cũng đã đến cho việc tân phúc âm hoá tại phương Tây, nơi mà nhiều người đã chịu phép Rửa Tội đang sống nếp sống hoàn toàn phi Kitô giáo và ngày càng có nhiều người tuy vẫn còn ràng buộc phần nào với đức tin nhưng ít hiểu biết hay hiểu sai đức tin ấy. Nhiều khi đức tin bị một số nền văn hoá trình bày một cách châm biếm hay dửng dưng, thậm chí còn có sự nghi kỵ ra mặt. Đây là lúc để thực hiện cuộc tân phúc âm hoá ở phương Tây.

“Nhiều nước và nhiều dân tộc mà trước kia tôn giáo và đời sống Kitô hữu rất phồn thịnh và có khả năng nuôi dưỡng một cộng đồng đức tin bền vững và hoạt động, thì nay đang bị rơi vào thử thách nặng nề, và trong một số trường hợp thậm chí đang trải qua một sự biến đổi triệt để do hậu quả của sự lan tràn thái độ dửng dưng tôn giáo, chủ nghĩa tục hoá và chủ nghĩa vô thần. Tình trạng này đặc biệt liên quan đến các nước và các dân tộc của Thế Giới Thứ Nhất, là nơi mà sự thịnh vượng và chủ nghĩa hưởng thụ, thậm chí giữa cảnh đói nghèo và khốn khổ của những người khác, đang khuyến khích và duy trì một cuộc sống ‘như thể Thiên Chúa không hiện hữu’” (30).

Với tinh thần trách nhiệm và sự dũng cảm, các cộng đoàn Kitô giáo phải biết cách đáp ứng cuộc canh tân này mà Hội Thánh cần phải làm, do những thay đổi đang diễn ra về văn hoá và xã hội. Họ phải học cách thiết kế và thi hành tiến trình chuyển đổi kiên trì tới các mô hình mới, đồng thời luôn lấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng làm điểm tham chiếu.

10. Phúc âm hoá ban đầu, chăm sóc mục vụ và cuộc tân phúc âm hoá

Huấn lệnh truyền giáo ở cuối các sách Tin Mừng (Mc 16:15tt; Mt 28:19tt; Lc 24:48tt; Cv 1:8) không thể được coi là đã hoàn tất; nó chỉ bước sang một giai đoạn mới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng “không thể xác định rõ nét các đường ranh giữa chăm sóc mục vụ cho giáo dân, tân phúc âm hoá và hoạt động truyền giáo chuyên biệt, và ta không được phép dựng lên những rào chắn giữa chúng hay chia cắt chúng thành những khoang biệt lập. […]

Chẳng hạn, các Giáo Hội có truyền thống Kitô giáo lâu đời và phải đương đầu với nhiệm vụ nặng nề của việc tân phúc âm hoá thì đang hiểu rõ hơn rằng họ không thể là những người truyền giáo cho những người ngoài Kitô giáo tại các nước và các lục địa khác nếu họ không quan tâm thật sự đến những người ngoài Kitô giáo tại chính quê hương họ. Vì vậy hoạt động truyền giáo trong nước (ad intra) là một dấu hiệu đáng tin và là mối kích thích cho hoạt động truyền giáo ở nước ngoài (ad extra), và ngược lại”(31).

Là Kitô hữu và “là Hội Thánh” có nghĩa là truyền giáo, nếu không thì không là gì cả. Yêu mến đức tin của mình thì phải làm chứng cho đức tin, đưa đức tin đến với người khác và để người khác tham dự vào đức tin ấy. Thiếu nhiệt huyết truyền giáo là thiếu nhiệt tình với đức tin. Ngược lại, đức tin được kiện cường nhờ truyền bá nó. Những lời của Đức Giáo Hoàng về tân phúc âm hoá có thể chuyển dịch thành một câu hỏi khá trực tiếp và mang tính quyết định: “Chúng ta có quan tâm tới việc truyền bá đức tin và dẫn đưa những người ngoài Kitô giáo đến với đức tin không?” “Chúng ta có thực sự là những người truyền giáo tự đáy lòng mình không?”

“Tân phúc âm hoá” là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội Thánh muốn thể hiện một cách mới mẻ sứ mạng cơ bản của Hội Thánh, căn tính và lý do hiện hữu của Hội Thánh. Vì vậy, kế hoạch này không bị giới hạn vào những vùng nào đó được xác định rõ rệt, nhưng là một cách để cắt nghĩa và đem ra thực hành di sản tông đồ trong thời đại chúng ta và cho thời đại chúng ta. Trong kế hoạch tân phúc âm hoá, Hội Thánh ao ước đem sứ điệp độc đáo của mình vào thế giới hôm nay và vào trong cuộc thảo luận hiện nay: loan báo Nước Thiên Chúa đã được khai mở trong Chúa Giêsu Kitô. Không một thành phần nào trong Hội Thánh dược miễn khỏi kế hoạch này. Các Giáo Hội Kitô kỳ cựu phải xem xét vấn đề nhiều người đã bỏ thực hành đức tin; còn các Giáo Hội trẻ hơn, qua tiến trình hội nhập văn hoá, phải không ngừng có những biện pháp giúp mình đưa Tin Mừng vào đời sống hằng ngày, tiến trình này không những tinh luyện và nâng cao các nền văn hoá, mà trên hết còn giúp cho các nền văn hoá mở ra trước sự mới mẻ của Tin Mừng. Nói chung, mội cộng đoàn Kitô giáo phải tái hiến mình cho chương trình chăm sóc mục vụ mà nay xem ra đang trở nên khó khăn hơn và có nguy cơ rơi vào tình trạng làm cho có lệ và vì thế kém khả năng thông truyền những mục đích nguyên thuỷ của nó. Tân phúc âm hoá thì đồng nghĩa với truyền giáo; nó đòi hỏi khả năng khởi hành lại một cách mới mẻ, vượt qua các ranh giới và mở rộng chân trời. Tân phúc âm hoá thì ngược với thái độ tự mãn, khép kín hay não trạng status quo, “giữ nguyên như cũ”; nó cũng ngược với ý nghĩ cho rằng các chương trình mục vụ cứ việc tiến hành giống như trong quá khứ. Ngày nay, một thái độ “cứ làm như bình thường” không còn thích hợp nữa. Một số Giáo Hội địa phương mà đã dấn mình vào cuộc canh tân đều tái xác nhận rằng bây giờ là lúc để Hội Thánh kêu gọi mọi cộng đoàn Kitô đánh giá việc thực hành mục vụ của họ dựa trên nét đặc trưng truyền giáo của các chương trình và hoạt động của họ (32).

Câu hỏi

Các cộng đoàn Kitô giáo chúng ta nay đang trải nghiệm những thay đổi sâu xa trong Hội Thánh và xã hội.

1. Đâu là những đặc điểm chính của những thay đổi này trong các Giáo Hội địa phương của chúng ta?

2. Hội Thánh thể hiện như thế nào vai trò truyền giáo của mình trong việc tham dự vào đời sống hằng ngày của dân chúng, “nơi mái nhà của các con cái của mình”?

3. Cuộc tân phúc âm hoá đã có thể tái tạo sinh lực và tái sinh động hoá cuộc phúc âm hoá lần đầu hay các chương trình mục vụ đã có như thế nào? Tân phúc âm hoá đã giúp khắc phục như thế nào sự mệt mỏi và vất vả phát sinh từ cuộc sống hằng ngày của các Giáo Hội địa phương chúng ta?

4. Chúng ta đã tìm ra được điều gì từ việc đánh giá hiện tình của các Giáo Hội địa phương trên quan điểm tân phúc âm hoá? Thế giới đang trải qua những thay đổi quan trọng dẫn đến nhũng tình hình mới và những hách thức mới đối với Kitô giáo. Sáu bối cảnh chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đã được trình bày: văn hoá (hiện tượng tục hoá), xã hội (sự trà trộn giữa các dân tộc), phương tiện truyền thông đại chúng, kinh tế, khoa học và đời sống dân sự. Những bối cảnh này đã được mô tả một cách tổng quát và đồng bộ.

5. Đâu là những hiệu ứng chuyên biệt của những thay đổi này tại các Giáo Hội địa phương?

6. Những bối cảnh này đã tương tác như thế nào trong đời sống các Giáo Hội địa phương? Chúng đã ảnh hưởng thế nào tới đời sống của các Giáo Hội ấy?

7. Chúng đã đặt ra những câu hỏi và thách thức nào? Các Giáo Hội địa phương dã có những câu trả lời nào?

8. Đâu là những trở ngại chính và những cố gắng khó khăn nhất để nêu vấn đề về Thiên Chúa trong thảo luận ngày nay? Kết quả thế nào? lưu tâm đặc biệt dành cho bối cảnh tôn giáo

9. Có những thay đổi gì đã diễn ra trong các kinh nghiệm tôn giáo của dân chúng?

10. Đã xuất hiện những khía cạnh mới nào trong các nhu cầu linh đạo và tôn giáo? Có đang xuất hiện những truyền thống tôn giáo mới nào không?

11. Các cộng đoàn Kitô giáo chịu ảnh hưởng thế nào bởi các thay đổi trong bối cảnh tôn giáo? Có những khó khăn chính nào? Những cơ hội mới nào? Trong cuộc tân phúc âm hoá, Hội Thánh phải được biến đổi trong cách suy nghĩ của mình để có thể tiếp tục thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng trong các bối cảnh mới này.

12. Mô tả những hình thức mà cuộc tân phúc âm hoá đã sử dụng trong các Giáo Hội địa phương.

13. Sự mạnh bạo vốn là đặc trưng của cuộc tân phúc âm hoá đã được bộc lộ như thế nào? Nó đã khơi dậy sức mạnh nào cho đời sống Hội Thánh và mục vụ?

14. Khía cạnh nào trong đời sống và hoạt động của Hội Thánh cần đến sự mạnh bạo này?

15. Các Giáo Hội địa phương đã hưởng ứng và thực thi thế nào lời kêu gọi của Đức Gioan Phaolô II về “một cuộc tân phúc âm hoá: mới về nhiệt tình, về phương pháp và cách biểu hiện”?

16. Việc cử hành các đại hội Thượng Hội Đồng cấp châu lục và cấp vùng đã hỗ trợ các cộng đoàn Kitô giáo thế nào trong việc xây dựng một kế hoạch cho cuộc tân phúc âm hoá?

(Còn tiếp)