Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người

VRNs (05.09.2011) – Úc Đại Lợi – Chuyện phiếm Chúa Nhật XXIV Thường niên
Chúa Nhật ngày 11/9/2011 nhằm ngày Thanksgiving của Úc Đại Lợi. Tác giả Trần Ngọc Mười Hai gửi đến quý độc giả câu chuyện phiếm dưới đây.



“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, ta ơn ai, đã đưa em về chốn này
tôi xây mãi cuộc vui.”

(Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)
(1P 2: 9-10)

Tạ ơn người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, hay tạ ơn cả đời người, cũng là tạ rất nhiều ơn. Tạ ơn, cả những người đã cho tôi trọn cuộc đời, luôn có Chúa. Đó, là ý nghĩa của cụm từ bên tiếng Anh, tiếng của Em, đúng hơn cả tiếng của người rất Mỹ, có chữ “Thanksgiving”, cũng từng hát:

“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người
.
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Còn, là tiếng phát xuất từ tâm hồn của người Mễ (tức Maya) có gốc nguồn từ một văn minh xưa cũ, mà người xưa dám dùng từ rất lếu láo gọi họ là “Mọi Da Đỏ”, rất chói tai. Bởi, da họ đâu mầu đỏ. Và, người họ đâu là “Mọi”. Vẫn văn minh, còn hơn nhiều giòng giống. Giống nòi Maya, không chỉ sở đắc hoặc hiện hữu mỗi 4 ngàn năm văn vật, như tộc Việt người nhà mình và họ còn là bộ tộc rất văn minh từng xây dựng Kim Tự Tháp rất đặc biệt ở xứ Mỹ (chứ không hẳn Hoa Kỳ), vì nước này “cầm nhầm” danh xưng “Mỹ” của người Mễ, rất Maya. Hoặc “Americano”, thật tiêu biểu.

Nói dông nói dài (không hẳn nói dai) là để nói lên những điểm nhỏ về nền văn minh/văn hiến cả ngàn năm có lẻ, của người dân bộ tộc rất “Mỹ-mà-không-Bông-Kỳ” (xứ Mễ-Tây-Cơ rất Maya), là ở chỗ: luôn biết tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, luôn có nhau. Cũng vì tinh thần cảm kích, biết mà tạ ơn ấy, nên hầu hết các bộ tộc Aztec, Olmec, Yaqui, Trique, Maya, Tarahumara… xứ này có tập tục dâng lên thần thánh của mình toàn thân thể của kẻ chiến thắng trong giác đấu, hoặc song đấu để tạ ơn ngay trên nóc “kinh tự tháp” của tộc mình.

Tạ ơn đây, còn là điểm tương đồng Tây/Ta, giữa tà thần và Đạo Chúa. Nhà Đạo mình, cũng có tục dâng tiến Giavê, người con độc nhất, làm của lễ rất “tạ ơn”, như ở Cựu Ước, có Abraham, Isaac, Yacob… vẫn giữ tinh thần rất “thanksgiving”, kiểu của bộ tộc da-không-đỏ, rất Maya đất Mễ.

Về lại nhân loại, đôi lúc có người hỏi tinh thần “tạ ơn” là tinh thần gì, thì đây câu đáp ở bài hát:

“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin: tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai, đã cho tôi
còn những ngày quên kiếp sống, lẻ loi.
Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
tình sáng ngời như sao xuống, từ Trời.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Tình sáng ngời”, Trời ban cho tôi, “như sao xuống”, có thể là nhiều thứ. Những thứ thông thường như: tài năng, kiến thức, sắc đẹp, tình yêu. Có thể, là thứ đặc biệt, rất hiếm, là niềm tin vào Chúa Trên Cao. Mà, người đời gọi đó là “tín ngưỡng”.

Duy có điều, là: niềm tin rất “tín và ngưỡng” hôm nay, đã có dấu hiệu lạ thường, ở nhiều nhóm. Nhóm tiêu biểu nhất lá nhóm trẻ, ở nhiều chốn. Nơi và chốn, dễ thấy nhất là đất tự do con cái Chúa. Vì tự do, nên người con của Chúa nay đã có tín hiệu hiểu biết tính tự do, theo kiểu khác. Khác người. Khác đời. Khác cả người đời thuở xa xưa.

Về niềm tin vẫn trụ nơi tâm can nhóm người trẻ tuổi nay đã thấy xuất hiện nhiều hiện tượng cùng tư tưởng dám cho rằng tín ngưỡng/niềm tin vào Đạo, nay đang “nát” nơi đầu óc của thế hệ trẻ vào tuổi “tin”. Như bản tường trình do tác giả Denyse O’Leary viết trên báo điện “MercatorNet” hôm 25/7/11 như sau:

Vừa rồi đây, chúng tôi có dịp để mắt nhìn vào khẳng định được đăng tải trên tờ báo khoa học khá nghiêm chỉnh mang tên “Intelligence” cho rằng niềm tin vào Thiên Chúa có tương quan rộng lớn với “hệ số thông minh” khá thấp.

Cũng trên báo này, trong cùng năm, chúng tôi được người viết bảo cho biết là: với tuổi “teen” ở Hoa Kỳ, thì giữa tôn giáo và nhóm tuổi “teen” có hệ số thông minh thấp, luôn có tương quan mật thiết. Thử nghĩ xem, tuổi “teen” đây lớn lên với niềm tin tưởng rằng: trước kia các hành xử không nghiêm chỉnh làm tan nát đầu óc của họ thế nào, thì nay, đối với người trẻ sùng đạo, nay lại là: tôn giáo!

Helmuth Nyborg, một cây viết ở Mỹ từng thực hiện cuộc điều tra để xem thực hư thế nào đối với người trưởng thành, đã để lại một báo cáo như sau: “Hiện nay đã có khảo sát nghiên cứu xem Hệ số thông minh (gọi là IQ) có gì liên hệ đến hệ thống xếp loại theo mẫu số chung và lợi nhuận trong cùng một khuôn khổ quan hệ với “mầm gien”, vốn sử dụng các dữ liệu đại diện lấy từ Nghiên Cứu Khảo Sát Toàn Quốc Theo Chiều Dọc Về Tuổi Trẻ (NLSY97). Theo khảo sát này, nhóm Vô thần có 1.95 điểm IQ cao hơn nhóm Ngộ Đạo, và 3.82 điểm IQ cao hơn nhóm Thệ Phản Phóng Khoáng và 5.89 điểm IQ của nhóm chủ trương chuyên vào Giáo điều. Nói chung, các giáo phái khác biệt chỉ là do hệ số thông minh và lợi tức, thôi. Lòng tin vào Đạo đang giảm sút ở tuổi từ 12 đến 17.”

Điều thấy rõ, là: hệ số thông minh (IQ) khiến các cá thể ra như đang bị hút xuống đáy vực theo giáo phái và mức độ thành tựu nào thích hợp với trình độ riêng rẽ của hệ thức phức tạp về hiểu biết. Và, nói theo hệ thức phát triển cá thể, thì điều này có nghĩa: các giáo phái hiện thời được xếp hạng theo thứ tự “gien” di truyền về trí tuệ, tức hệ số IQ. Về mặt tiến hoá, các nhà vô thần hiện đại đang phản ứng một cách có lý với các thách thức về tầm hiểu biết và cảm xúc. Trong đó, giới Thệ Phản Phóng khoáng và đặc biệt là nhóm chủ trương Giáo điều vẫn còn tuỳ thuộc vào tư duy xưa cổ, tiền sử, siêu nhiên và mơ tưởng.” (x. Denyse O’Leary, MercatoNet 25/07/2011)

Nói gì thì nói. Bảo gì thì bảo. Nếu cứ nhận định theo sách vở với điều tra, nghiên cứu kiểu “chẻ từng chữ”, thì nhiều người đọc cứ tưởng như có thật. Mà sự thực, thì các nhà khảo sát/nghiên cứu kiểu “phóng đãng” trên lại căn cứ trên thống kê lập với một số người, rất thiên vị. Chẳng thế mà, tác giả Denyhse O’Leary, đã nhận định ngay rằng:

“Hẳn rằng khảo sát viên Nyborg chắc không bị tật nguyền khập khiễng với bệnh thiếu khách quan. Xem ra Ông này không am tường về các nhánh giáo hội vẫn ăn khớp với nhau, khá chặt chẽ. Chẳng hạn, ông liệt vào nhóm giáo phái “Phóng khoáng”, gồm những vị thuộc Giáo hội Anh Giáo, Do thái giáo, Tin Lành MêthôĐi, Giáo phái Tin Lành thuộc nhóm Calvin, Luther và các nhóm Thệ Phản khác. Sự thật, tất cả các phe nhóm giáo hội từ cánh cực-phóng khoáng cho chí cổ truyền vẫn có khuynh hướng bám sát nhóm tuổi “teen” theo đuôi họ ngang qua các câu lạc bộ tuổi trẻ, ở nhiều nơi. Bởi, các nhóm mà tác giả này gọi là Thệ Phản khác, có khi còn khắt khe hơn Giáo hội nói chung chung của mình nữa.

Và, ông lại còn xếp hạng cùng với nhóm “Giáo điều”, là nhóm Đồ đệ Đức Kitô, Hội thánh hiệp nhất Đức Kitô, Công giáo La Mã, Mormon, Giáo hội Kinh Điển, Hồi giáo, Giáo hội Báptít, Phong trào Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có điều chắc chắn là tác giả đã lầm lẫn giữa nhóm Đồ Đệ Đức Kitô với Giáo hội Hiệp nhất của Đức Chúa và coi họ như một giáo phái đại đồng. Sự thật thì những người được thanh tẩy đều là con cái Chúa, đang ở rải rác khắp nơi trên bản đồ của thế giới. Tác giả lại chắc mẫm rằng những vị thuộc Giáo hội Công giáo, Mormon, và Hồi giáo theo nghĩa họ có niềm tin cốt lõi, không thể đổi thay. Trong khi đó, người Công giáo không thường xuyên đi nhà thờ giữ đạo, lại sống rời rạc, không sinh hoạt tập thể, vẫn còn rất đông, đếm không xuể. Và, không hiểu tác giả nói chữ “giáo điều” đây, theo nghĩa nào. Nói chung, thì Helmuth Nyborg đã tạo thứ ấn tượng tách bạch mà lại không có chiều sâu hậu cảnh cần thiết để thiết lập danh bạ mang tính thông tin hơn.

Tắt một lời, tác giả Helmuth Nyborg đã thất bại khi tìm cách xếp loại giáo phái theo quan điểm chọn lựa hoặc quyết tâm làm thành viên của mỗi nhóm, mà lại không đánh bật được ý nghĩa của mỗi chọn lựa, nơi họ. Thật sự thì điều mà tác giả Nyborg cũng như Lynn nói đến, lại chỉ chứng minh được một điều là: sự tự do về trí tuệ đều tương quan với hệ số thông minh cao và với quan điểm khác biệt về niềm tin vào Thiên Chúa, chỉ cốt để chiếu dọi chút ánh sáng khi trắc nghiệm về điểm IQ, thế thôi.” (x. Denyse O’Leary, bđd)

Nói cho cùng, có phân tách và so sánh niềm tin tôn giáo với trí thông minh sáng láng, vẫn là những chuyện nghe qua rồi quên đi. Bởi, người trẻ hay ai đó, có đưa ra những phát giác mới, rất kinh khủng, cũng chỉ là để đánh bóng tư tuởng hoặc lập trường, tưởng-như-là-mới-keng của mình, mà thôi.

Về những “phát giác kinh khủng” liên quan đến niềm tin và sự khâm phục lời dạy của bậc thày, trong ngoài Đạo, có những truyện kể rất dễ nể, để minh hoạ cho các luận chứng nói ở trên, có thể đề ra, như sau:

“Bậc thày Hasan rất nhân hiền của Đạo Hồi, được đệ tử mình hỏi: thầy có bao nhiêu bậc thày cả thảy, thì hiền nhân Hasan đáp:

-Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.

Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời:”Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm.”

Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: “Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!” Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: “Có trộm được gì không?” và ông ta đều đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ”. Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.

Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!”

Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: “Con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng, bằng hành động.”

Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: “Con tự thắp cây nến này phải không?” Đứa bé đáp: “Thưa phải.” Đoạn ta hỏi: “Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?”

Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: “Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?” Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình.

Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.”

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể, dù kể về bậc thày-nhân-hiền ở nhiều nơi, vẫn là nói và kể về những điều rất đáng nể. Để thực hiện trong cuộc đời. Duy có một chân lý được đấng bậc hiền nhân quân tử xưa từng quả quyết:

“Anh em là giống nòi được tuyển chọn,
là hàng tư tế vương giả,
là dân thánh,
dân riêng của Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Xưa anh em chưa phải là một dân,
nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa;
xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót,
nay anh em đã được xót thương.”

(1P 2: 9-10)

Là dân con được Chúa tuyển chọn, được hưởng lòng xót thương từ Đức Chúa, hẳn bạn và tôi ta càng có lý để hát lên những lời mà người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn còn hát:

“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hãy cứ tạ ơn Người. Dù Người đã đến, rồi lại đi. Người có đi, nhưng Người sẽ về lại cùng Thánh Thần Người để ở mãi mãi với con người. Hãy cứ tạ ơn nhé anh, nhé em. Ơn người. Ơn đời.

Trần Ngọc Mười Hai
những quyết tâm và tụng niệm
sẽ mãi mãi tạ ơn Người.
Tạ ơn mọi người.