Thứ Hai, 19 tháng 9, 2011

Lạy Chúa của con, lạy Chúa của con, tại sao Chúa bỏ con? (Tv 22)

VRNs (18.09.2011) – Bài giáo lý ngày thứ tư 14/09/2011 tại Thính phòng Phaolô VI của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI



Anh Chị Em thân mến,

trong bài giáo lý ngày hôm nay, tôi muốn được đề cập đến một Thánh Vịnh có liên hệ mật thiết với Kitô Luận, liên tiếp được nhắc đến trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, trong cả hai chiều hướng bị hèn hạ hoá và được vinh quang, liên quan đến sự chết và đời sống.

Đó là Thánh Vịnh 22 (Ps 22) , theo truyền thống Do Thái, 21 theo truyền thống Hy Lạp – Latinh, là một lời cầu nguyện khẩn xin và đánh động, đầy ý nghĩa nhân loại và sung mãn về thần học, khiến cho Thánh Vịnh đang được nói đến là một trong những Thánh Vịnh được dùng để cầu nguyện nhiều nhứt và được nghiên cứu nhiều nhứt trong Sách Thánh Vịnh.

1- Thánh Vịnh diễn tả ra diện mạo của một con người vô tội, bị bách hại và địch thù bao vây, muốn giết anh.

Và anh cậy nhờ đến Chúa trong một lời than khóc đau đớn, trong tâm tình vững chắc của đức tin, rộng mở mình ra một cách bí nhiệm đến thái độ ngợi khen Chúa.

Lời cầu nguyện, trước thực tại đầy âu lo của hiện tại và ký ức đầy an ủi của quá khứ tuần tự thay phiên nhau, làm cho người cầu nguyện nhận thức được tình trạng vô vọng của mình, nhưng anh không muốn từ bỏ niềm hy vọng.

Tiếng kêu cứu khởi thủy là tiếng kêu lên Chúa có vẻ như đang ở thật xa vời, không đáp ứng lại và có vẻ như bỏ rơi anh:

- “Lạy Chúa của con, lạy Chúa của con, tại sao Chúa bỏ con? Dù con thảm thiết kêu gào, ơn cứu độ nơi nào xa vời! Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng yên ” (Ps 22, 2-3).

Thiên Chúa lặng thinh, và đó là những gì làm cho tan nát lòng người cầu nguyện, không ngừng kêu lên Chúa, nhưng không được một câu trả lời nào.

Ngày lại ngày, đêm lại đêm tiếp nối nhau, người cầu nguyện không biết mệt cứ tìm kiếm một lời nói, một sự giúp đỡ nào đó, mà chẳng thấy được gì hết. Thiên Chúa dường như xa lắc xa lơ, đã quên mất anh rồi, Thiên Chúa vắng mặt.

Lời cầu nguyện van xin mong được lắng nghe và có được một câu trả lời, thúc đẩy để có được cuộc tiếp xúc, liên lạc, tìm một mối tương giao có thể đem đến cho anh niềm an ủi nâng đỡ và cứu thoát.

Nhưng Thiên Chúa không trả lời, lời kêu cứu bị mất đi trong khoảng không và nỗi cô đơn trở thành hết chịu nỗi.

Dầu vậy, người cầu nguyện trong Thánh Vịnh của chúng ta, trong lời kêu cứu của mình, đã gọi Chúa bằng “Chúa của con“, nói lên lòng tin cậy tột đỉnh và đức tin.

Mặc cho những gì xảy ra bên ngoài, tác giả Thánh Vịnh không tin rằng mối liên kết của mình với Chúa bị hoàn toàn gián đoạn, và trong khi anh nói lên tại sao dường như có một thái độ bỏ lơ không thể hiểu được, anh xác nhận rằng “Thiên Chúa của anh” không thể bỏ bê anh được.

Như chúng ta biết lời kêu van khởi đầu Thánh Vịnh

- “Lạy Chúa của con, lạy Chúa của con, tại sao Chúa bỏ con?” đều được ghi lại trong Phúc Âm Thánh Matthêu, Thánh Marco, như là tiếng kêu được Chúa Giêsu đang hấp hối thốt lên trên thập giá (Mt 27, 46; Mc 15, 34). Tiếng kêu đó nói lên tất cả nỗi thất vọng của Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đang đương đầu với thảm cảnh của sự chết, một thực tại hoàn toàn nghịch lại với Thiên Chúa của sự sống.

Bị bỏ rơi dường như bởi tất cả các người thân của mình, bị các môn đệ phản bội và chối từ, bị bao vây bởi những kẻ phỉ báng, nhục mạ Người. Chúa Giêsu đang bị đè bẹp dưới sức nặng của một sứ mạng mà Người phải trải qua bằng sự khinh bỉ và bị tiêu diệt.

Bởi đó Người kêu lên Chúa Cha, và sự đau khổ của Người được thốt lên bằng các lời của Thánh Vịnh.

Nhưng tiếng kêu van của Người không phải là tiếng kêu tuyệt vọng, tiếng kêu của tác giả Thánh Vịnh cũng vậy.

Trong tiếng kêu lên của mình, tác giả Thánh Vịnh đang bước đi trên một con đường đầy phiền não, nhưng sau cùng là con đường được mở ra trong viễn ảnh ngợi khen, trong niềm tin cậy vào sự chiến thắng của Chúa.

Theo thói quen Do Thái, trích dẫn phần khởi đầu của một Thánh Vịnh hàm chứa việc ám chỉ liên quan đến cả bài thơ Thánh Vịnh. Lời cầu nguyện đau khổ làm nát lòng của Chúa Giêsu, mặc dầu vẫn mang tính chất đau khổ khôn tả, vẫn mở rộng ra lòng chắc chắn đến vinh quang:

- “Nào Đấng Ki Tô lại chẳng phải chịu khỏ hình như vậy, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 26).

Đó là những gì Chúa Phục Sinh sẽ nói lên cho các môn đệ trên đường Emmaus.

Trong cuộc khổ nạn của Người, vâng theo lệnh Chúa Cha, Chúa Giêsu trải qua cơn bị bỏ rơi và sự chết, để đạt đến sự sống và ban sự sống đó cho mọi tín hữu.

2 – Tiếp theo lời kêu van đầu tiên, trong Thánh Vịnh của chúng ta, là nỗi đau khổ đối nghịch, kỷ niệm nhớ lại dĩ vãng:

- “Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa, họ cậy trông, Ngài đã hộ trì. Van này liền được cứu nguy, đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài ” (Ps 22, 5-6).

Thiên Chúa mà ngày hôm nay tác giả Thánh Vịnh cảm nhận thấy xa vời như vậy, nhưng đó là Thiên Chúa nhân từ mà Israel đã luôn luôn có kinh nghiệm trong lịch sử mình.

Dân tộc mà người cầu nguyện cũng là thành phần, dân tộc đó đã là đối tượng tình yêu của Chúa và có thể chứng nhân cho lòng trung thành của Người. Khởi đầu từ các tổ phụ, kế đến bên Ai Cập và trong cuộc lữ hành lâu dài trong sa mạc, rồi trong cuộc đinh cư trên đất hứa phải đối đầu với các dân háo chiến tấn công và kẻ thù, cho đến thời gian đen tối bị đày. Tất cả lịch sử Thánh Kinh là cả một tiếng kêu van xin giúp đỡ của dân và những lời đáp ứng cứu thoát của Thiên Chúa.

Tác giả Thánh Vịnh nhắc lại đức tin không lay chuyển của cha ông mình, “đã tin cậy” – câu nói được lập lại đến ba lần – mà không bao giờ bị thất vọng.

Nhưng giờ đây, chuổi các lời van xin với lòng tin cậy và lời đáp ứng của Chúa đang bị gián đoạn. Tình trạng của tác giả Thánh Vịnh có vẻ như là chối bỏ cả lịch sử giải thoát, khiến cho thực tại lúc đó càng trở nên xót xa hơn nữa.

Nhưng Thiên Chúa không thể nào dối gạt, và bởi đó lời cầu nguyện trở lại nói lên tình trạng nặng nề của nguời cầu nguyện, khiến cho Thiên Chúa phải động lòng thương và can thiệp, như Người đã làm trong quá khứ.

Tác giả Thánh Vịnh cho mình là

- “thân sâu bọ, chớ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dễ duôi” (Ps 22, 7).

- “Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bỉu mỏ, buông lời mỉa mai” (Ps 22, 8).

Và cảm thấy mình bị tổn thương đến tận trong đức tin, họ nói:

- “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó ! Người có thương giãi gỡ đi nào” (Ps 22, 9).

Dưới những lời mĩa mai và khinh thị, dường như người bị bắt bớ đàn áp mất đi cả phẩm giá con người của mình,

- như Người Đầy Tớ đau khổ được diễn tả trong Sách Tiên Tri Isaia (cfr. Is 52,14; 53, 2b-3),

- như người công chính bị đàn áp trong Sách Khôn Ngoan (cfr. Sap 2, 12-20),

- như Chúa Giêsu trên núi Calvario (cfr. Mt 27, 39-43),

tác giả Thánh Vịnh cảm thấy mối tương quan của mình với Chúa bị đặt thành vấn đề, bởi sự vắng mặt bên ngoài của Người.

Nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện chăm sóc người cầu nguyện với sự gần gũi và âu yếm không thể chối cải của Người.

Tác giả Thánh Vịnh nhắc lại cho Chúa điều đó:

- “Đưa con ra khỏi thai bào, vòng tay mẹ ẵm, Chúa trao an toàn. Chào đời, con được dâng cho Chúa, được Chúa là Cha tự sơ sinh” (Ps 22, 10-11).

Chúa là Thiên Chúa sự sống, làm cho được mình sinh ra, đón nhận đứa trẻ sơ sinh và chăm sóc cho chú bé với tình thương yêu của người cha.

Nếu trước kia, tác giả Thánh Vịnh nhắc lại lòng trung thành của Chúa trong lịch sử dân tộc, thì giờ đây người cầu nguyện nhắc lại chính lịch sử của mình liên quan với Chúa, nhắc nhớ lại thời điểm có ý nghĩa đặc biệt lúc khởi đầu cuộc đời của mình.

Và vì đó, mặc cho những gì thất vọng của hiện tại, tác giả Thánh Vịnh nhận biết một sự gần gũi và một tình yêu thương của Chúa sâu đậm như vậy, đến nỗi bây giờ có thể lớn tiếng thét lên, trong một tiếng tuyên xưng trọn hảo đức tin và tạo nên hy vọng

- “từ trong dạ mẹ, Chúa là Chúa của con” (Ps 22, 11b).

3 – Tiếng than van giờ đây trở thành lời kêu xin đầy buồn thảm:

- “Xin Chúa đừng đứng xa con, bởi vì mối lo âu bên mình, không ai giúp con” (Ps 22, 12).

Chỉ có một trạng thái gần gũi, mà tác giả Thánh Vịnh cảm nhận được và làm cho mình khiếp sợ, đó là sự gần gũi của những kẻ thù địch.

Như vậy cần có Chúa, xin Chúa hãy làm cho Người trở thành gần gũi và trợ giúp, bởi vì kẻ địch đang bao vây người cầu nguyện, chúng đang xiết chặc quanh anh. Và họ là những kẻ lực lưởng, như sư tử xé nát con mồi bằng tiếng gầm thét và phanh thây

- “Quanh con cả đàn bò bao kín, thú Ba – san ùa đến bủa vây: há mồm đe dọa gớm thay, khác nào sư tử xé thây vang gầm” ( Ps 22, 13-14).

Mối lo âu biến nhận thức mối nguy hiểm không còn được trung thực nữa, làm cho trở nên to lớn hơn. Đối phương tỏ ra không có cách gì thắng nổi, chúng trở thành thú dữ và rất nguy hiểm, trong khi đó thì tác giả Thánh Vịnh chỉ là một con sâu bọ, bất lực và không được ai giúp đỡ.

Nhưng những hình ảnh đó được dùng trong Thánh Vịnh cũng được dùng để nói lên khi con người trở nên bạo lực và tấn công người anh em, một cái gì đó là thú vật đã cưỡng chế trên anh ta, dường như nhân tính anh ta không còn nữa. Bạo lực luôn luôn chứa đựng một cái gì đó là súc vật và chỉ có Chúa can thiệp cứu thoát mới có thể trả lại cho con người nhân tính của con người.

Giờ đây, đối với tác giả Thánh Vịnh là đối tượng của cuộc tấn công tàn bạo, dường như không còn có con đường nào nữa để thoát thân và sự chết bắt đầu chiếm hữu lấy anh:

- “Tưởng mình như tan dần ra nước, toàn thân con xương cốt rã rời (…) nghe cổ họng khô ran như ngói, lưõi với hàm dính lại cùng nhau (…) áo mặc ngoài, chúng đem chia chác, còn áo trong chúng bắt thăm luôn” (Ps 22, 15.16.19).

Với những hình ảnh thảm đạm mà chúng ta gặp lại được trong các bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, chúng ta thấy được cảnh tượng tan nát thân thể của người bị kết án, sức nóng nực không thể chịu đựng nổi làm cho người hấp hối trở nên khổ sở, mà chúng ta biết được trong lời van xin của Chúa Giêsu:

- “Tôi khát” ( Jn 19, 28),

và cùng với nổi khổ đó còn thêm thái độ của những kẻ cai ngục, như là những tên lính dưới thập giá, họ phân chia nhau y phục của nạn nhân, bởi vì cho rằng nạn nhân đã chết (cfr. Mt 27, 35; Mc 15, 24; Lc 23, 24; Jn 29, 23-24).

Với tất cả những gì đang xảy ra vừa kể, chúng ta hiểu được lời kêu cứu khẩn thiết xin cứu giúp lại vang lên:

- “Lạy Chúa là sức mạnh con nương nhờ, cứu mau lạy Chúa, xin đừng đứng xa (…) Xin cứu mạng con” (Ps 22, 20.22a).

Và đó là tiếng kêu làm cho các tầng trời mở ra, bởi lẽ là tiếng tuyên xưng một đức tin, một niềm tin cậy chắc chắn vượt qua bên kia mọi nghi nan, mọi tình trạng tối tăm và mọi điều thất vọng.

Là lời than van được biến đổi, nhường chỗ lại cho lời ngợi khen trong vìệc được đón nhận cứu thoát:

- “Chúa đã trả lời con. Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương ” (Ps 22, 20c-23).

Như vậy Thánh Vịnh mở ra lời chúc tụng tạ ơn, mở rộng ra cho đến bài ca trọng thể cuối cùng loan báo cho cả cộng đồng dân tộc, các tín hữu của Chúa, đến cả cộng đồng phụng vụ và các thế hệ tương lai:

- “Hỡi những ai kính sợ Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacob, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!

Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.

Chịu ơn Người, tôi vâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khẩn nguyền tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người.

Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.

Toàn thế giới muôn người nhớ lại và trở về cùng Chúa. Mọi dân tộc dưới trần phủ phục trước Tôn Nhan.

Bởi vì Chúa nắm quyền vương đế, Người thống trị chư dân.

Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất sẽ bái lạy một mình Người, phàm những ai trở về cát bụi sẽ củng phủ phục trước Thánh Nhan.

Phần tôi, tôi nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Người. Thiên hạ sẽ nói về Thiên Chúa cho thế hệ tương lai, truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người, rằng: “Thiên Chúa đã làm như vậy” (Ps 22, 24-32).

Chúa đã chạy đến cứu giúp, đã cứu thoát người nghèo khổ và đã tỏ hiện cho thấy diện mạo nhân từ của Người.

Cái chết và sự sống đươn kết nhau trong môt mầu nhiệm bất khả phân ly, và sự sống đã chiến thắng, Thiên Chúa của sự cứu thoát đã tỏ ra là Chúa không ai có thể hành động ngược lại được. Mọi biên giới của mặt đất sẽ hân hoan chúc tụng Người và trước Thánh Nhan Người mọi gia đình dân tộc sẽ quy phục.

Đó là sự chiến thắng của đức tin, có thể biến đổi sự chết thành ân huệ của đời sống, vực thẳm của đau khổ thành nguồn mạch hy vọng.

Anh Chị Em rất thân mến, Thánh Vịnh nầy đã hướng dẫn chúng ta lên đồi Golgota, dưới chân thập giá Chúa Giêsu, để sống lại cuộc khổ nạn của Người và chia sẻ niềm vui sung mãn phục sinh.

Như vậy chúng ta hãy để cho mình được ánh sáng mầu nhiệm phục sinh chinh phục, mặc cho trong sự khiếm diện bề ngoài của Chúa, cả trong sự thinh lặng của Chúa.

Và như các môn đệ trên đường Emmaus, chúng ta hãy học biết chuẩn nhận được thực tại xác thực ngay cả bên kia những gì thể hiện ra bên ngoài, bằng cách nhận biết rằng con đường để được vinh thăng chính là con đường đi trong bị hạ nhục và đời sống được tỏ rạng hoàn hảo trong sự chết, trong thập giá.

Như vậy bằng cách đặt lại tất cả lòng tin cậy và hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa là Cha, trong mỗi nỗi lo âu, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có thể cầu nguyện với đức tin.

Và tiếng kêu cứu, xin giúp đỡ của chúng ta sẽ trở thành lời hát ngợi khen.

Cám ơn Anh Chị Em.

Phỏng dịch từ nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.
(Thông tấn www.vatican.va, 14.09.2011).