Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011

Hướng dẫn linh mục xét mình

VRNs (17.10.2011) – Sài Gòn – Sứ điệp Fatima của Đức Mẹ nhấn mạnh đến việc sám hối. Đã là người, ai cũng là tội nhận, dù là Đức giáo hoàng, Giám mục, linh mục hay giáo dân, do đó Bộ giáo sĩ thuộc Toà thánh Vatican đã phát hành một “cẩm nang” mang tực đề Linh mục: Thừa tác viên của long thương xót Chúa (các yếu tố giúp các cha giải tội và linh hướng). Trong phần phụ lúc một, tài liệu này cho đăng Bảng hướng dẫn linh mục xét mình.
VRNs xin chuyển đến quý cha để tham khảo.



Các Đức giám mục đang xưng tội

BẢNG HƯỚNG DẪN LINH MỤC XÉT MÌNH

1.“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).

Tôi có thật sự nghiêm túc coi trọng sự thánh thiện của chức linh mục không? Tôi có tin chắc rằng sự thành công nơi thừa tác vụ linh mục của mình phát xuất từ Thiên Chúa, rằng với ơn Chúa Thánh Thần, tôi có đồng hóa chính mình với Đức Kitô và trao hiến cuộc sống tôi cho việc cứu rỗi thế giới không?

2.“Này là mình Thầy” (Mt 26,26).

Hy tế thánh lễ có phải là trung tâm cho đời sống thiêng liêng của tôi không? Tôi có chuẩn bị kỹ lưỡng để cử hành thánh lễ và có cử hành thánh lễ cách sốt sắng không? Tôi có tạ ơn Chúa sau thánh lễ không? Thánh lễ có phải là trung tâm cho ngày sống của tôi trong tâm tình tạ ơn và ngợi khen Chúa về những ơn lành của Người không? Tôi có trông cậy vào sự tốt lành của Chúa không? Tôi có làm việc đền tội cho những tội lỗi của mình và của tất cả nhân loại không?

3. “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2,17).

Tôi có cử hành hy tế thánh lễ theo những nghi thức và luật chữ đỏ mà Giáo Hội đã qui định không? Tôi có cử hành thánh lễ với ý nghĩ ngay lành và tuân theo các sách nghi thức phụng vụ qui định không? Tôi có quan tâm đến Mình Thánh Chúa được cất giữ nơi nhà tạm và cẩn thận thay mới Mình thánh Chúa định kỳ không? Tôi có dành sự quan tâm thỏa đáng đến các vật dụng thánh và đảm bảo việc giữ gìn các vật dụng thánh không? Tôi có mặc những phẩm phục thánh cách xứng đáng theo qui định của Giáo Hội không? Tôi có ý thức mình hành động nhân danh Đức Kitô là Đầu không?

4. “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).

Tôi có cảm thấy vui thích sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, trong việc suy gẫm và thinh lặng thờ lạy không? Tôi có trung thành với việc viếng Thánh Thể mỗi ngày không? Nhà tạm có phải là kho báu đích thực của tôi không?

5. “Xin giải thích dụ ngôn cho chúng con” (Mt 13,36).

Tôi có nguyện gẫm hằng ngày cách chu đáo và cố gắng vượt qua mọi chia trí làm tôi xa rời Chúa không? Tôi có nhận ra ơn soi sáng từ Thiên Chúa, Đấng mà tôi đang phụng sự không? Tôi có siêng năng suy niệm Lời Chúa không? Tôi có sốt sắng đọc những lời kinh thường ngày không?

6. Điều cần thiết là “cầu nguyện luôn và không được nản chí” (Lc 18,1).

Tôi có cử hành Phụng vụ các giờ kinh mỗi ngày một cách trọn vẹn, xứng đáng, chăm chú và sốt sắng không? Tôi có trung thành với lời cam kết của mình với Chúa Kitô trong khía cạnh quan trọng này của thừa tác vụ của tôi, là cầu nguyện nhân danh toàn thể Hội Thánh không?

7. “Hãy đến và theo tôi” (Mt 19,21).

Chúa Giêsu Kitô có phải là tình yêu đích thực của đời tôi không? Tôi có vui vẻ tuân theo lời cam kết của mình với tình yêu trước Thiên Chúa trong đời sống độc thân khiết tịnh không? Tôi có để mình rơi vào những suy nghĩ, ước muốn hay hành động không trong sạch không? Tôi có nuông chiều những cuộc nói chuyện không phù hợp không? Tôi có cho phép mình gần dịp tội để lỗi đức khiết tịnh không? Tôi có biết giữ gìn đôi mắt mình không? Tôi có thận trọng trong những giao tiếp của tôi với nhiều hạng người khác nhau không? Đối với người tín hữu đời sống của tôi có tiêu biểu cho một chứng tá đích thực là sự tinh tuyền thánh thiện thì khả thi, sinh hoa kết trái và mang lại vui thích không?

8. “Ông là ai” (Ga 1,20).

Trong đời sống hằng ngày, tôi có yếu đuối, uể oải hay biếng nhác không? Những cuộc chuyện trò trao đổi của tôi có phù hợp với ý hướng tự nhiên và siêu nhiên mà một linh mục nên có không? Tôi có cẩn trọng bảo đảm rằng không có những dấu hiệu của sự phù phiếm và hời hợt trong cuộc sống của tôi không? Mọi hành động của tôi có phù hợp với bậc sống linh mục của mình không?

9. “Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).

Tôi có yêu mến sự nghèo khó Kitô giáo không? Tâm hồn tôi có thuộc về Thiên Chúa không? Tôi có siêu thoát khỏi mọi thứ khác không? Tôi có được chuẩn bị để hy sinh phục vụ Thiên Chúa tốt hơn không? Tôi có được chuẩn bị để từ bỏ những tiện nghi, những kế hoạch cá nhân và những liên hệ chính đáng của tôi vì Thiên Chúa không? Tôi có chiếm hữu những thứ không cần thiết không? Tôi có những chi tiêu không cần thiết hay tôi có bị chủ nghĩa tiêu thụ thao túng không? Tôi có biết sử dụng thời gian rảnh rỗi để đến gần Thiên Chúa, để nhớ rằng tôi luôn luôn là môt linh mục, ngay cả những lúc nghỉ ngơi hay trong kỳ nghỉ không?

10. “Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25).

Tôi có mắc những tội kiêu ngạo [do] những khó khăn nội tâm, tính dễ tự ái, sự nóng giận, việc thiếu sẵn sàng để tha thứ, những khuynh hướng chán nản, v.v… không? Tôi có cầu xin Chúa ban cho tôi nhân đức khiêm nhường không?

11. “Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34).

Tôi có xác tín rằng khi tôi hành động “với tư cách của Đức Kitô” là tôi dấn thân trực tiếp cùng một Thân thể của Đức Kitô là Giáo Hội không? Tôi có thể nói cách chân thành rằng tôi yêu mến Giáo Hội không, rằng tôi vui vẻ phấn đấu cho sự phát triển của Giáo Hội không? Tôi có quan tâm đến những lợi ích của Giáo Hội, của mọi chi thể của Giáo Hội và cho toàn thế giới nhân loại không?

12. “Anh là Phêrô” (Mt 16,18).

Nihil sine Episcopo – không điều gì mà không cần đến giám mục – đây là câu nói của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia. Những lời này có nơi cội nguồn của thừa tác vụ của tôi không? Liệu tôi có dễ dàng đón nhận những lệnh truyền, những lời khuyên hay sự sửa dạy từ Đấng Bản Quyền của tôi không? Tôi có thường xuyên cầu nguyện cho Đức Thánh Cha không? Tôi có hoàn toàn hiệp thông với những giáo huấn và những ý chỉ của Đức Thánh Cha không?

13. “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

Tôi có bác ái đối với những anh em linh mục của mình không? Tính vị kỷ có làm tôi thờ ơ với những anh em linh mục không? Tôi có chỉ trích họ không? Tôi có nâng đỡ những anh em linh mục đang đau bệnh về luân lý và thể lý không? Tôi có tận tâm với việc làm huynh đệ để không một ai bị bỏ rơi bao giờ không? Tôi có cư xử với tất cả những anh em linh mục và tất cả giáo dân với lòng bác ái và nhẫn nại của Chúa Kitô không?

14. “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Sự hiểu biết của tôi về giáo huấn của Giáo Hội có đầy đủ như những gì Giáo Hội muốn truyền đạt không? Tôi có hấp thụ và truyền tải những giáo huấn của Giáo Hội không? Tôi có ý thức rằng dạy những điều trái ngược với huấn quyền của Giáo Hội, được công bố long trọng hay thông thường, tức là xúc phạm và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các tín hữu không?

15. “Cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).

Rao giảng Lời dẫn đưa những người tín hữu đến với các bí tích. Tôi có chạy đến bí tích Giải tội cách đều đặn không? Tôi có thường xuyên đến với bí tích Thống hối theo đúng với bậc sống của tôi và vì những việc linh thánh mà tôi có liên quan không? Tôi có cử hành bí tích Giải tội cách quảng đại không? Tôi có dành thời gian hợp lý và có định thời gian riêng biệt để làm linh hướng cho các tín hữu không? Tôi có chuẩn bị kỹ càng cho việc giảng dạy giáo lý không? Tôi có rao giảng với lòng nhiệt thành và với tình yêu của Chúa không?

16. “Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn và các ông đến với Người” (Mc 3,13).

Tôi có chú trọng cổ võ ơn gọi linh mục và tu sĩ không? Tôi có cổ võ ý thức nhiều hơn về ơn gọi nên thánh phổ quát của các tín hữu không? Tôi có khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho các ơn gọi và cho việc thánh hóa hàng giáo sĩ không?

17. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mt 20,28).

Tôi có hiến dâng chính bản thân mình cho người khác và phục vụ họ mỗi ngày theo tinh thần của Tin Mừng không? Tôi có là chứng tá của tình yêu của Thiên Chúa bằng những việc lành không? Tôi có thấy được sự hiện diện của Chúa Kitô trên thánh giá và sự chiến thắng của tình yêu nơi thánh giá không? Hoạt động thường ngày của tôi có được ghi dấu bằng một tinh thần phục vụ không? Tôi có coi việc sử dụng quyền bính như một hình thức phục vụ không?

18. “Tôi khát” (Ga 19,28).

Tôi có cầu nguyện và quảng đại hy sinh vì lợi ích của các linh hồn, là những người mà Thiên Chúa đã trao phó cho tôi coi sóc không? Tôi có chu toàn những trách nhiệm mục tử của tôi không? Tôi có quan tâm đến các linh hồn các tín hữu qua đời không?

19. “Đây là con của Bà, đây là Mẹ của anh” (Ga 19,26-27).

Tôi có hoàn toàn hy vọng phó dâng chính mình cho Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, Mẹ của các linh mục, với tất cả tình yêu và cho tình yêu Chúa Giêsu Kitô con của Mẹ không? Tôi có thực hành việc tôn sùng Đức Maria không? Tôi có lần chuỗi Mân Côi hằng ngày không? Tôi có biết cậy dựa vào sự cầu thay nguyện giúp của Mẹ trong những cuộc chiến đấu với ma quỷ, xác thịt và thế gian không?

20. “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

Tôi có quan tâm trợ giúp và ban các bí tích cho người hấp hối không? Trong suy gẫm cá nhân, trong việc dạy giáo lý và trong việc rao giảng thường ngày, tôi có quan tâm đến giáo huấn của Giáo Hội về những sự sau hết không? Tôi có cầu xin ơn bền đỗ không? Tôi có mời gọi các tín hữu làm như vậy không? Tôi có cầu khấn cách đạo đức thường xuyên cho linh hồn của các tín hữu đã qua đời không?